Theo các chuyên gia, ngành năng lượng nguyên tử đòi hỏi mức độ an toàn rất cao trong vận hành các lò phản ứng hạt nhân.
Vì vậy, đội ngũ chuyên gia, cán bộ quản lý cần có chuyên môn sâu và kinh nghiệm thực tiễn dày dạn.
PGS.TS Nguyễn Ngọc Lâm - Ủy viên Ban Chấp hành Hội Tự động hóa TPHCM, chuyên gia có hơn 50 năm kinh nghiệm đào tạo cán bộ hạt nhân trong nước, cho biết: Lò phản ứng hạt nhân là nơi xảy ra phản ứng dây chuyền, trong đó nhiên liệu chứa U-235 (uranium-235) được phân chia bởi nơ-tron nhiệt. Sự phân chia này giải phóng ra số lượng nơ-tron lớn hơn (khoảng 2,4 nơ-tron) để tiếp tục gây ra các phản ứng phân chia tiếp theo của U-235 theo dạng thác lũ.
Quá trình này tạo ra nguồn năng lượng lớn, đồng thời phát sinh các loại bức xạ hạt nhân. Do đó, nhân lực làm việc tại các nhà máy hạt nhân có nhiệm vụ kiểm soát phản ứng dây chuyền để không xảy ra sự cố nổ hạt nhân. Các phản ứng dây chuyền phải được giữ ổn định để cung cấp năng lượng và phát điện, dựa vào cơ chế hấp thụ bớt số nơ-tron dư thừa. Năng lượng hạt nhân sinh ra từ phản ứng trong tâm lò được truyền ra ngoài thông qua các chất tải nhiệt như nước, nước nặng, khí, kim loại lỏng... đến các thiết bị như tuốc-bin để sản xuất điện năng.
Từ cơ chế này, PGS Lâm cho rằng, điện hạt nhân tích hợp hai loại công nghệ: Công nghệ hạt nhân và công nghệ phát điện. Vì vậy, đào tạo nguồn nhân lực cho điện hạt nhân ở nước ta có thể phân chia sơ bộ thành đào tạo vận hành lò phản ứng hạt nhân và đào tạo vận hành hệ thống điện.
Về nhân lực vận hành hệ thống điện, theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Lâm, nhân sự được đào tạo ngành điện trong nhiều năm qua ở trong và ngoài nước hiện đã làm chủ công nghệ phát điện tại các nhà máy thủy điện, nhiệt điện và điện khí. Các chuyên gia và kỹ thuật viên điện Việt Nam bắt đầu vận hành hệ thống điều độ SCADA-AI từ năm 1981 và đến các năm 1998 - 1999 vận hành thành công hệ thống SCADA-EMS cho điều độ mạng truyền tải các vùng và liên vùng 500 kV.
Ông nhận định, với định hướng phát triển năng lượng tái tạo theo Quy hoạch điện VIII trong thời gian tới, các ngành đào tạo hiện hữu hoàn toàn có khả năng cung cấp nguồn nhân lực cho vận hành hệ thống điện.
Về nguồn nhân lực ngành hạt nhân, PGS.TS Nguyễn Ngọc Lâm nhấn mạnh, để tự chủ phát triển điện hạt nhân là thách thức lớn đối với Việt Nam. Nếu muốn tự chủ xây dựng lò phản ứng hạt nhân, chúng ta cần làm chủ nhiều công nghệ then chốt như tuyển quặng uranium, chế tạo thanh nhiên liệu, công nghệ lò phản ứng và công nghệ chuyển đổi năng lượng hạt nhân thành điện năng phù hợp với tuốc-bin.
Ông cho biết, Việt Nam có trữ lượng quặng uranium (U₃O₈) ở mức trung bình trên thế giới. Theo Tạp chí Địa chất số 307 (2008), tổng tài nguyên U₃O₈ của Việt Nam là hơn 200.000 tấn. Lấy ví dụ, công suất thiết kế của hai tổ máy phản ứng từng dự kiến lắp đặt tại Ninh Thuận là 2.000 MWe, sử dụng trong 24 năm chỉ cần 12.000 tấn U₃O₈.
“Tuy nhiên, việc phát triển công nghệ làm giàu uranium gặp khó khăn vì chúng ta chưa có công nghệ trong nước và còn bị giới hạn bởi Công ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, điều này cản trở việc làm giàu nhiên liệu hạt nhân, từ đó ảnh hưởng tới phát triển các công nghệ khác để xây dựng lò phản ứng”, PGS Lâm cho biết.
Trên thế giới, không nhiều quốc gia có khả năng chế tạo lò phản ứng hạt nhân cho nhà máy điện nguyên tử. Nếu Việt Nam muốn tự chủ sản xuất lò phản ứng điện hạt nhân thì đó là câu chuyện của tương lai. Do đó, PGS Lâm cho rằng, việc làm chủ công nghệ điện hạt nhân trước mắt chỉ nên giới hạn ở mức làm chủ khâu vận hành lò phản ứng cho nhà máy điện nguyên tử và nguồn nhân lực là yếu tố then chốt.
Theo PGS.TS Trần Thiện Thanh - Phó Trưởng khoa Vật lý - Vật lý Kỹ thuật, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia TPHCM), nguồn nhân lực là nền tảng cho việc xây dựng và vận hành an toàn, hiệu quả từ nghiên cứu cơ bản, ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong các ngành kinh tế - xã hội, đến triển khai các dự án như trung tâm nghiên cứu khoa học - công nghệ hạt nhân tại Đồng Nai và nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận.
PGS.TS Trần Thiện Thanh cho biết, Bộ GD&ĐT đang thực hiện quy hoạch và đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở giáo dục đại học, trung tâm đào tạo chuyên ngành phục vụ nhu cầu phát triển nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Ngành Giáo dục vừa công bố 11 cơ sở đào tạo sẽ được đầu tư phát triển đào tạo nhân lực ngành năng lượng nguyên tử. Tuy nhiên, theo PGS Thanh, cả số lượng và chất lượng nhân lực đào tạo còn hạn chế so với nhu cầu thực tế. Ngoài ra, lượng sinh viên theo học ngành Vật lý hạt nhân và Kỹ thuật hạt nhân còn rất ít, do thiếu chính sách thu hút.
PGS.TS Trần Thiện Thanh đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành hạt nhân. Cụ thể, PGS Thanh cho rằng cần phát triển, cập nhật các chương trình đào tạo mang tính liên ngành, xuyên ngành, không chỉ phục vụ điện hạt nhân, mà còn là lĩnh vực liên quan như môi trường, phân tích vật liệu, trí tuệ nhân tạo trong vận hành.
Bên cạnh đó, cần chủ động đưa nhân lực ngành năng lượng nguyên tử tham gia vào các dự án của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế, như các khóa đào tạo xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển bền vững năng lượng hạt nhân; mở rộng chương trình trao đổi sinh viên, thực tập sinh, nghiên cứu sinh với các quốc gia có ngành hạt nhân phát triển.
Cùng đó, chính quyền và cơ quan quản lý cần đẩy nhanh tiến độ đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm và tăng cường đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên cho các cơ sở đào tạo trong nước. Việc đào tạo có thể triển khai theo cơ chế đặt hàng, cấp học bổng và cam kết tuyển dụng sau tốt nghiệp.
“Cần cấp kinh phí đào tạo đại học, sau đại học cho các cơ sở đào tạo ngành liên quan đến lĩnh vực hạt nhân”, ông Thanh nói. Đồng thời, cần có chiến lược phát triển nhân lực hạt nhân bằng cách cụ thể hóa quy hoạch phát triển và ứng dụng năng lượng nguyên tử đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 với lộ trình và định lượng cụ thể từng năm.
Về khung chương trình đào tạo, PGS Thanh cho biết, nhà trường dự kiến làm việc với Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam để tổ chức cho sinh viên thực tập trên mô hình mô phỏng lò phản ứng hạt nhân đặt tại viện. Bước tiếp theo, sinh viên được kết nối với các đối tác trong nước và quốc tế để trực tiếp thực hành vận hành lò phản ứng trong thực tế.
Dự kiến khung chương trình đào tạo chuyên gia năng lượng nguyên tử trình độ đại học sẽ bao gồm 7 hợp phần: 4 hợp phần kiến thức cơ bản, 2 hợp phần nâng cao và 1 hợp phần thực hành.
“Khi chương trình đào tạo đại học đáp ứng được các tiêu chí, chúng tôi sẽ xây dựng khung chương trình cho các bậc đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ phù hợp. Người học sau khi hoàn thành không chỉ đạt chuẩn kiến thức, kỹ năng, tính tự chủ và trách nhiệm, mà còn đáp ứng một số yêu cầu quốc tế, tuy nhiên, các tiêu chuẩn này cần được điều chỉnh phù hợp với mục tiêu quốc gia về đào tạo nhân lực ngành năng lượng nguyên tử”, PGS Thanh nhấn mạnh.
Theo Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển và ứng dụng năng lượng nguyên tử đến năm 2030, tầm nhìn 2050, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ GD&ĐT chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, hiệp hội nghề nghiệp liên quan chủ động rà soát, hoàn thiện các chương trình đào tạo trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân, phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu trong nước.
Ngành Giáo dục có vai trò kết nối mạng lưới đào tạo đại học và sau đại học trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; đồng thời phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ chỉ đạo các cơ sở đào tạo y khoa hoàn thiện chương trình đào tạo bác sĩ chuyên khoa, kỹ thuật viên xạ trị và y học hạt nhân phù hợp thông lệ quốc tế.