Hiện, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo trình độ tiến sĩ đã quy định khá đầy đủ các nội dung cần thiết, hoạt động từ mở ngành, xây dựng chương trình, tuyển sinh, tổ chức và quản lý đào tạo, cấp bằng. Mặc dù công tác đào tạo trình độ tiến sĩ những năm qua đạt nhiều thành tựu quan trọng, nhưng trên thực tế, tại các cơ sở đào tạo còn nhiều bất cập. Ví như, ngoài việc tuyển sinh khó khăn còn là vấn đề chất lượng của luận án tiến sĩ; quy mô ngành đào tạo còn khá nhỏ và mang tính phân tán…
Cách đây hai năm, dư luận xã hội xôn xao với luận án tiến sĩ “Nghiên cứu giải pháp phát triển môn cầu lông cho công chức viên chức thành phố Sơn La” của nghiên cứu sinh thuộc Viện Khoa học Thể dục thể thao. Nhiều người cho rằng, nội dung đề tài không đủ tầm của luận án tiến sĩ. Không chỉ là chất lượng đề tài, hiện có xu hướng người học tìm cơ sở đào tạo “dễ thở” để làm nghiên cứu sinh.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, trong đó việc một số đơn vị chưa tuân thủ chặt chẽ quy chế đào tạo. Từ đó, dẫn đến tình trạng chất lượng nhiều công bố khoa học bắt buộc chưa cao, chỉ ở mức đối phó đủ điều kiện công trình. Ngoài ra, còn tồn tại tình trạng nể nang, dễ dãi khi thành lập hội đồng đánh giá luận văn, luận án, thông qua một số đề tài luận án tiến sĩ có phạm vi quá hẹp, không bảo đảm giá trị khoa học…
Theo báo cáo của Ủy ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc hội, tính đến năm 2022, toàn hệ thống có 196 cơ sở đào tạo được phép đào tạo trình độ tiến sĩ. Trong đó có 157 cơ sở giáo dục đại học và 39 viện nghiên cứu, trường của tổ chức chính trị, lực lượng vũ trang, trường của bộ, ngành. Tuy có nhiều cơ sở đào tạo tiến sĩ nhưng do không tập trung nguồn lực nên chất lượng đào tạo tiến sĩ không đồng đều.
Điều này cũng được Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn chỉ ra khi lấy ý kiến về dự thảo Thông tư ban hành chuẩn cơ sở giáo dục đại học (Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT ban hành ngày 5/2/2024). Theo Thứ trưởng, số lượng nghiên cứu sinh của Việt Nam thấp so với thế giới nhưng lại phân tán ở nhiều cơ sở giáo dục đại học. Có những trường đào tạo đa lĩnh vực, đến 50 ngành trình độ đại học nhưng chỉ 2 - 3 ngành đào tạo trình độ tiến sĩ.
Điều này vừa không mang lại nhiều hiệu quả, mà khó đảm bảo chất lượng. “Chất lượng chưa tốt, nguồn lực chưa đủ, đặc biệt không gắn với nghiên cứu nên chất lượng thấp, số lượng ít và không đáp ứng được yêu cầu”, Thứ trưởng nhận định.
Tính đến tháng 11/2022, quy mô đào tạo tiến sĩ của cả nước là 8.933 nghiên cứu sinh ở các lĩnh vực và ngành đào tạo. Trong khi đó, ở một số nước khác như Trung Quốc, chỉ riêng trong lĩnh vực kỹ thuật (engineering), số tuyển mới năm 2020 tại các trường đại học công lập là 195.850 nghiên cứu sinh. Ở Israel, năm học 2020 - 2021 có 11.855 nghiên cứu sinh.