Đất học Bát Tràng - Từ chiếc bàn xoay đến bảng vàng Tiến sĩ

Trần Hoà | 30/05/2022, 14:02
Theo dõi Giáo dục Thủ đô trên

Làng Bát Tràng không chỉ nổi danh với nghề làm gốm, mà từ xửa xưa đã được biết đến là vùng đất hiếu học với hàng chục vị đại khoa nổi tiếng đương thời.

Được khắp nước biết đến nghề gốm, Bát Tràng còn nổi danh là đất học Thăng Long. Cụ Đặng Huy Chú vào năm 1867, có viết bài thơ về làng Bát Tràng: Đất thiêng người giỏi nức quê xưa/ Từ chiếc bàn xoay hưởng lộc vua/ Chất củi đun lò nên nghiệp cả/ Đất sông luyện gốm nổi cơ đồ/ Góp công ham nghĩa lời vua tặng/ Đỗ đạt cao danh phúc tổ thừa/ Này đất đáng yêu phong vị đẹp/ Đầy trời ngan ngát khí xuân đưa.

Người khai khoa cho làng Bát Tràng là Tiến sĩ Vương Thì Trung (1537- ?). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu (1589) làm quan dưới thời nhà Mạc đến chức Hình khoa Đô cấp sự trung.

Người thứ hai là Tiến sĩ Trần Thiện Thuật, tự là Trung Mẫn, đỗ Tiến sĩ khoa Quý Hợi (1683) đời vua Lê Hi Tông làm quan đến Hiến sát sứ. Tên của ông được lưu danh trên tấm bia đá lập ngày 2/3 năm thứ 13 niên hiệu Vĩnh Thịnh đời vua Lê Dụ Tông (1717) tại Văn Miếu Quốc Tử Giám.

Tiến sĩ Nguyễn Đăng Liên đỗ khoa Bính Tuất năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Thịnh đời vua Lê Dụ Tông (1706). Ông làm quan tới chức Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu Thượng Bảo tự khanh. Khi mất ông được truy phong Hàn Lâm viện thị độc, lại được ban tên Hoà Hậu tiên sinh. Nguyễn Đăng Liên đỗ Tiến sĩ năm ông vừa tròn 31 tuổi.

Hai anh em ruột họ Lê là Lê Hoàn Viện đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715), đời vua Lê Dụ Tông, làm quan đến Thừa chính sứ Sơn Tây. Em trai ông là Lê Hoàn Hạo đỗ đầu thi Hương, đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Bảo Thái 8 (1727), làm quan đến Đông các Đại học sĩ. Sau khi mất được tặng Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử, Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu.

Ngoài ra họ Lê còn có Tiến sĩ Lê Danh Hiển thi Hương đỗ Giải nguyên, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Tỵ niên hiệu Cảnh Hưng (1785). Ông làm quan đến Giám sát ngự sử, Đốc đồng Thanh Hoa.

Em ruột Tiến sĩ Nguyễn Đăng Liên là Nguyễn Đăng Cẩm cũng đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh 14 (1718) đời vua Lê Dụ Tông. Trước đó, ông đỗ khoa Sĩ vọng, được bổ là Tri huyện, sau làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám.

Vị Tiến sĩ cuối cùng của làng Bát Tràng là Vũ Văn Tuấn (1803 – 1860) thi đỗ khoa Quý Mão (1843) đời Thiệu Trị. Ông từng làm Phó sứ sang nhà Thanh, được vua Tự Đức ban bốn chữ vàng “Cần, lao, khả, lục” và bảy bài thơ Ngự chế. Ông làm quan đến Án sát Hưng Hóa, hàm Thị giảng học sĩ. 

Lễ nghĩa làng khoa bảng


Từ bàn xoay gốm đến bảng vàng Tiến sĩ, làng Bát Tràng đã tạo nét văn hóa hiếm có của Thăng Long.

Ngoài các vị đỗ đại khoa, Bát Tràng còn có nhiều người đỗ trung khoa như hương cống, cử nhân. Trong số đó có Phạm Văn Bích, một trong “Tứ hổ Bắc Hà”: Siêu - Thiều - Bích - Quát (Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Văn Bích, Cao Bá Quát) là các học giả nổi tiếng từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19.

Ông cử Bích để lại nhiều văn tập và thi tập, có nhiều bài hiện nay người Bát Tràng vẫn nhớ.

Ngoài các vị tiến sĩ, Bát Tràng còn có nhiều gắn bó với Trạng nguyên Giáp Hải nổi tiếng trong sử Việt. Tuy nhiên, do một số tư liệu chứng minh Giáp Hải là người Bắc Giang nên không tính hàng đại khoa của làng Bát Tràng.

Đặc biệt, Bát Tràng cũng được biết đến là quê hương của Đông các Đại học sĩ Bùi Hối Trai và hai quận công Nguyễn Tuấn và Nguyễn Thành Trân. Nguyễn Tuấn làm quan đại phu thời Lê Hoằng Định (1600 – 1619), giữ chức Phụng sai lưu thủ Tuyên Quang, thủ hiệu Tả Trần cai cơ. Sau được vua gia ân thăng làm Đặc Tiến phụ quốc Thượng tướng quân Đô chỉ huy sứ ty.

Nguyễn Thành Trân (1641 – 1693), 12 tuổi đã vào trong cung Trịnh Tạc, giữ chức Hữu Đề điểm. Là người được đánh giá là cẩn thận và chu đáo, năm 1667 ông được tham gia đoàn sứ bộ đi sứ nhà Thanh. Khi Trịnh Tạc qua đời, chúa Trịnh Căn tin cậy giao cho ông làm tổng thái giám.

Từ bàn xoay đến bảng vàng Tiến sĩ, các nhà khoa bảng Bát Tràng không chỉ có đóng góp tích cực cho đất nước, mà còn góp phần khắc họa phong phú thêm nét văn hóa độc đáo của quê hương.

Mặc dù là làng nghề nổi tiếng, có nhiều người giàu có nhưng người Bát Tràng rất trọng tri thức. Xưa kia, trong làng dù giàu có đến mấy mà không đỗ đạt thì cũng không được tham gia hội Tư văn. Làng rất giữ lễ nghĩa, các quan đại thần khi về đến bờ đê đều bỏ võng lọng đi bộ vào làng. Ở đình làng, khi nào cũng giữ lễ nghĩa ngồi sau các bô lão.

Hiện trong đình vẫn còn lưu giữ được 8 đôi câu đối do Tiến sĩ Lê Danh Hiển và Trần Thiện Thuật bái tiến. Trong đó, có câu: Tục mỹ phong thuần thù tạc sâm thượng hoà hạ mục/ Địa linh nhân kiệt hiển dương đa thiếu quý lão toàn; hay: Đống vũ nguy nga tung tiền nhân chi chế độ/ Cung đình hiện khoát thuỳ hậu đại chi quy mô – nghĩa là: Nhà cửa nguy nga sáng tỏ mãi quy mô người trước/ Cung đình rộng rãi lưu muôn đời thiết kế người sau.

Bài liên quan
Chi Nê - Làng khoa bảng ven dòng sông Bùi
Huyện Chương Mỹ (Hà Nội) có 12 làng với 26 người đỗ đại khoa, thì riêng thôn Chi Nê, xã Trung Hòa đã có tới 11 người được ghi danh trong Văn Miếu Quốc Tử Giám.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Đất học Bát Tràng - Từ chiếc bàn xoay đến bảng vàng Tiến sĩ