Con trai thứ 2 của cụ Ngô Ngọc là cụ Ngô Nhân Hải đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi Mậu Thìn (1508) đời vua Lê Uy Mục, làm quan tới chức Án sát ngự sử.
Cháu nội cụ Ngô Nhân Hải là Ngô Nhân Trừng đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi Canh Thìn (1580) đời vua Mạc Mậu Hợp, làm quan tới chức Tự khanh. Con trai trưởng của Ngô Nhân Trừng là Ngô Nhân Triệt đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi Đinh Mùi (1607) đời vua Lê Kính Tông, làm quan tới chức Tự khanh.
Ngô Nhân Triệt tự là Mai Hiên, hiệu là Đức Thành, ngay từ nhỏ, Ngô Nhân Triệt đã có tư chất thông minh, nổi tiếng hay chữ trong vùng. Tuy nhiên, câu chuyện đỗ đạt của ông cũng khá gian nan. Các khoa thi Ất Mùi (1595), khoa Mậu Tuất (1598), khoa Nhâm Dần (1602) và khoa Giáp Thìn (1604) Ngô Nhân Triệt đều không được dự thi Đình.
Lý do là vì bố của ông là Ngô Nhân Trừng làm quan dưới triều Mạc, nhà Lê xếp những quan chức nhà Mạc vào hàng phản bội. Đây là một vấn đề chính trị phức tạp, nên nhiều con em quan lại triều Mạc đều chịu chung số phận như vậy.
Đến năm 1606, nhà cầm quyền Lê - Trịnh thay đổi cách nhìn nhận, nên khoa thi năm Đinh Mùi (1607) Ngô Nhân Triệt mới được dự thi. Tại khoa thi này, ông đỗ Hội nguyên Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Con trai thứ hai của cụ Ngô Nhân Triệt là Ngô Nhân Tuấn đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi Canh Thìn (1640) đời vua Lê Thần Tông, làm quan tới chức Thượng thư bộ Hộ, sau về trí sĩ.
TS Nguyễn Văn Tú - Phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám - cho biết: “Hiện, có 5 vị tiến sĩ họ Ngô làng Vọng Nguyệt được khắc tên tại đây. Trong đó có ghi Ngô Nhân Triệt đỗ tiến sĩ Đồng xuất thân tại khoa thi năm Đinh Mùi 1607. Khoa thi này có 3.000 sĩ tử ứng thí, lấy 5 người, Ngô Nhân Triệt đỗ thứ hai”.
Phụ tử đồng khoa
Nhà thờ họ Ngô làng Vọng Nguyệt còn lưu giữ nhiều sắc phong cùng các tư liệu chữ Hán, cùng tấm bia đá khắc “Ngũ thế liên trúng tiến sĩ” ghi về các khoa thi có người trong họ đỗ tiến sĩ. Nhà thờ Ngô Lý Trai được dựng hoàn toàn bằng gỗ lim và được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia vào năm 1991. Phía sau nhà thờ có cây thị 500 năm tuổi, được công nhận là “Bách niên cổ mộc”.
Ở chi thứ, cụ Ngô Định vào Lý Trai, huyện Đông Thành (xã Diễn Kỷ, Diễn Châu - Nghệ An) lập nghiệp nên gọi là họ Ngô Lý Trai. Tính từ cụ thủy tổ Ngô Định về sau, theo thống kê sơ bộ thì có đến 18 vị đỗ đạt từ tam trường trở lên trong đó có 5 người đỗ tiến sĩ.
Nhắc đến người thầy nổi tiếng của dòng họ Ngô Lý Trai, phải kể đến cụ Ngô Trí Trạch (SN 1509). Tuy đỗ thấp (Tứ trường) nhưng có công lớn trong việc dạy học, có nhiều trò đỗ đại khoa, làm quan lớn trong triều đình nên được phong “Đặc tiến kim tử lộc đại phu”. Cụ là người có công sinh thành Ngô Trí Tri.
Người đỗ đại khoa đầu tiên của dòng họ Ngô Lý Trai cụ Ngô Trí Tri (SN 1535) và con trai Ngô Trí Hòa đỗ đồng tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1592) đời vua Lê Thế Tông. Trong đó, cụ Ngô Trí Tri đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ, Ngô Trí Hòa đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ (Hoàng giáp) năm 28 tuổi. Trường hợp Phụ tử đồng khoa (hai cha con cùng đỗ một khoa) được xem là lần đầu tiên trong lịch sử khoa bảng của nước nhà.
Tại khoa thi năm Bính Tuất (1646), người con thứ 2 của cụ Ngô Trí Hòa là Ngô Trí Vinh đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ. Năm Giáp Tuất (1694), cụ Ngô Công Trạc đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ và Ngô Hưng Giáo đỗ tiến sĩ năm 1710.
Dòng họ Ngô Lý Trai đã trở thành dòng họ 5 đời liên tiếp đỗ tiến sĩ. Cụ Ngô Trí Tri làm Giám sát ngự sử rồi làm quan đến chức Lễ bộ Tả Thị Lang. Còn cụ Ngô Trí Hòa (con cụ Tri) làm đến chức Thượng thư bộ Hộ kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám rồi lên đến Thiếu bảo, tước Phú Xuân hầu.
Hằng năm, tại đền thờ họ Ngô ở làng Vọng Nguyệt (Bắc Ninh), vào ngày 17 tháng Giêng đều diễn ra lễ giỗ tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền nhân. Con cháu toàn gia tộc tập trung tại nhà thờ tiến hành cúng lễ tổ tiên, thể hiện truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Còn tại đền thờ họ Ngô Lý Trai (Nghệ An) cứ đến dịp 21/11 âm lịch, con cháu thập phương lại tìm về nhà thờ để làm lễ tế tổ, tri ân tưởng nhớ tổ tiên đã có công khai canh lập ấp ở vùng đất này.