Trong khi cử nhân thất nghiệp, làm trái ngành ngày càng nhiều thì doanh nghiệp lại thiếu hụt lao động tay nghề cao, buộc các trường nghề phải tìm cơ chế hợp tác thực chất để doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư hàng tỷ đồng cho đào tạo, thay vì chỉ “hớt váng” nguồn nhân lực.

Thực tế đã xuất hiện những cú rẽ hướng táo bạo, cho thấy sự thay đổi trong tư duy lựa chọn con đường học tập - nghề nghiệp. Trường hợp của N.V.H. (19 tuổi, ngụ TPHCM) là một ví dụ. Dù đã trúng tuyển vào một trường đại học kỹ thuật có tiếng, song sau một học kỳ, H. quyết định dừng lại để chuyển sang học nghề. “Học đại học 4 năm nặng lý thuyết, ra trường vẫn phải rải hồ sơ xin việc là điều em không muốn. Em chọn học nghề vì được doanh nghiệp cam kết tuyển dụng từ đầu, hỗ trợ chi phí đào tạo. Học xong có việc làm ngay, đúng chuyên môn, không phải lo thất nghiệp hay giấu bằng đại học để đi làm công nhân”, H. chia sẻ.
Quyết định của H. không phải cá biệt. Giữa nhiều băn khoăn của xã hội, một tín hiệu mới đang dần định hình lại bức tranh giáo dục nghề nghiệp: Doanh nghiệp không chỉ đến trường để tuyển dụng, mà còn “đặt hàng” đào tạo, trả học phí và tham gia nuôi dưỡng nhân sự ngay từ giảng đường. Tuy nhiên, để mô hình này không chỉ dừng lại ở những trường hợp riêng lẻ, mà trở thành xu hướng bền vững, cần một cơ chế hợp tác “chung vốn, chung lời”, thay vì những lời kêu gọi xã hội hóa mang tính hình thức.
Trao đổi về vấn đề này, ThS Lê Thiên Huy - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Nghề Hoa Sen (TPHCM), cho rằng việc nhà trường và doanh nghiệp bắt tay hợp tác không phải là điều mới. Nhiều năm qua, các trường đại học, cao đẳng đã mời doanh nghiệp tham gia tư vấn tuyển sinh, góp ý chương trình đào tạo hoặc cử chuyên gia giảng dạy. Đây đã trở thành chuẩn mực chung.
Tuy nhiên, theo ThS Huy, tư duy của các doanh nghiệp lớn hiện nay đã có sự chuyển dịch rõ rệt. Nếu trước đây, hợp tác chỉ dừng ở mức bề nổi, doanh nghiệp thường tiếp cận sinh viên năm cuối thông qua các ngày hội việc làm để “so bó đũa, chọn cột cờ”, thì nay họ chủ động đi những bước sâu hơn.
“Doanh nghiệp không còn muốn thụ động chờ nguồn nhân lực có sẵn. Họ sẵn sàng tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo với tâm thế của nhà đầu tư chiến lược. Đầu tư không chỉ vài suất học bổng, mà là chung vốn, chung lời: Đầu tư phòng thí nghiệm, xưởng thực hành tiền tỷ, thậm chí trả lương, tức tài trợ học phí, cho sinh viên ngay trong thời gian học”, ThS Huy cho biết.
Sự thay đổi này xuất phát từ nhu cầu thực tế. Doanh nghiệp ngày càng cần nhân sự không chỉ giỏi chuyên môn, mà còn hiểu văn hóa doanh nghiệp, có thể làm việc ngay. Thay vì tốn chi phí tuyển dụng và đào tạo lại, nhiều đơn vị chọn cách “nuôi quân” từ gốc.
Tại Trường Cao đẳng Nghề Hoa Sen, nhờ lợi thế nằm trong Công viên phần mềm Quang Trung (QTSC), nơi được ví như “thung lũng Silicon” của Việt Nam với hơn 200 doanh nghiệp công nghệ, xu hướng này diễn ra khá mạnh. Các đối tác như TMA Solutions, MISA hay các đơn vị thuộc Viện Phát triển Tài năng Việt Nam không chỉ thẩm định chương trình đào tạo, mà còn đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại để sinh viên được học trên chính những công nghệ doanh nghiệp đang sử dụng.
“Tuy nhiên, khi doanh nghiệp bỏ tiền đầu tư vào ‘chất xám tương lai’, sinh viên phải ý thức đó là một khoản đầu tư. Việc học không thể hời hợt, áp lực nâng cao chuyên môn, ngoại ngữ và kỹ năng mềm sẽ lớn hơn để xứng đáng với việc được doanh nghiệp ‘trả lương’ đi học”, ThS Huy nhấn mạnh.

Dù xu hướng hợp tác nhà trường - doanh nghiệp đang mở ra nhiều tín hiệu tích cực, song để nhân rộng, chỉ dựa vào thiện chí chưa đủ. Theo thầy Nguyễn Khánh Gia - hội viên Hội Giáo dục nghề nghiệp TPHCM, điểm nghẽn lớn nhất hiện nay nằm ở cách tiếp cận khái niệm “hợp tác”. Lâu nay, việc xã hội hóa giáo dục thường được hiểu là doanh nghiệp hỗ trợ nhà trường như hình thức trách nhiệm xã hội.
Cách tiếp cận này khó bền vững vì vô hình trung đặt doanh nghiệp vào vai “người cho”, còn nhà trường là “người nhận”. Trong khi đó, bản chất của doanh nghiệp là kinh doanh, mọi khoản chi phải được tính toán trên hiệu quả đầu tư. “Để doanh nghiệp thực sự vào trường - dám bỏ tiền xây xưởng, trả lương cho người học, cử kỹ sư giỏi nhất tham gia giảng dạy thì chỉ kêu gọi xã hội hóa chưa đủ. Cần những cuộc đối thoại thẳng thắn, bàn rõ lợi ích kinh tế thực sự cho doanh nghiệp”, thầy Gia nhận định.
Theo ông, cơ chế “chung vốn, chung lời” cần được luật hóa và minh bạch hóa. Khi doanh nghiệp đầu tư xưởng thực hành tại trường, quyền lợi cần được xác định rõ ngay từ đầu. Thứ nhất, quyền sở hữu trí tuệ và ưu tiên tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao mà không tốn chi phí tìm kiếm.
Thứ hai, lợi ích từ các sản phẩm, dịch vụ do sinh viên tạo ra trong quá trình thực hành. Sinh viên nghề hoàn toàn có thể gia công phần mềm, chế tạo sản phẩm ứng dụng hoặc thực hiện dịch vụ kế toán cho chính doanh nghiệp ngay tại xưởng trường, biến xưởng thực hành thành “phân xưởng vệ tinh”. Thứ ba, các chính sách ưu đãi về thuế và cơ chế hỗ trợ khi doanh nghiệp tham gia đào tạo.
Thầy Gia cho rằng, cần những cơ chế thông thoáng hơn để nhà trường trở thành mắt xích trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp. Khi và chỉ khi doanh nghiệp thấy việc “đặt hàng” đào tạo mang lại lợi ích thiết thực, cả ngắn hạn lẫn dài hạn, cao hơn chi phí bỏ ra, họ mới sẵn sàng gắn bó lâu dài.
Dự báo giai đoạn 2025 - 2030, mô hình đào tạo truyền thống sẽ dần nhường chỗ cho các mô hình hiện đại gắn với sự phát triển công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, tự động hóa và các ngành nghề mới. Thay vào đó là mô hình “doanh nghiệp trong nhà trường” và “nhà trường trong doanh nghiệp”, nơi ranh giới giữa học và làm ngày càng mờ nhạt. Sinh viên không còn lo lắng “ra trường làm gì”, mà phải đối mặt với áp lực “làm sao để làm tốt nhất” ngay từ năm nhất.
Để hiện thực hóa điều này, bên cạnh nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo của các trường nghề, cần hành lang pháp lý cởi mở hơn, cho phép các trường tự chủ tài chính sâu rộng, hạch toán minh bạch và hướng đến phi lợi nhuận trong các dự án hợp tác với doanh nghiệp. “Chỉ khi bài toán lợi ích kinh tế được giải quyết thấu đáo, cái bắt tay giữa nhà trường và doanh nghiệp mới thực sự bền chặt, từ đó tạo đòn bẩy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia”, thầy Gia kỳ vọng.
Theo ThS Lê Thiên Huy, khi nhà trường chứng minh được uy tín của đội ngũ quản lý và chất lượng sinh viên, doanh nghiệp sẽ tự tìm đến. Doanh nghiệp nhìn vào quy mô, năng lực tài chính và giá trị cốt lõi của nhà trường; họ cần thấy sự đào tạo thực chất, không phải chỉ dựng lên vài phòng lab để đánh bóng tên tuổi.