Các thông số đầu vào mặc dù đã giảm so với năm 2022 nhưng vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao so với các năm trước đây (bao gồm các thông số đầu vào cho các nhà máy điện sử dụng than nhập, than pha trộn, các nhà máy điện tuabin khí như các chỉ số gbNewC, ICI3, dầu HSFO, dầu Brent).
Hiện nay do khí Nam Côn Sơn suy giảm sản lượng mạnh nên các nhà máy nhiệt điện khí (Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2.1, Phú Mỹ 2.1 mở rộng, Phú Mỹ 4, Nhơn Trạch 1&2 và Bà Rịa) tiếp nhận nhiều khí Hải Thạch - Mộc Tinh, Sao Vàng - Đại Nguyệt và khí Đại Hùng, Thiên Ưng có giá cao, đặc biệt khí Thiên Ưng, Sao Vàng - Đại Nguyệt có giá rất cao.
Giá nhiên liệu tăng cao làm cho giá thành các nguồn nhiệt điện than và tua bin khí tăng rất cao, trong khi các nhà máy nhiệt điện than và khí chiếm tỷ trọng sản lượng điện phát lên tới 55% tổng sản lượng điện phát toàn hệ thống.
Mặt khác, theo EVN, tỷ giá ngoại tệ tăng mạnh cũng là yếu tố tác động đến giá thành sản xuất điện. Bình quân năm 2023 dự kiến tăng 4% so với năm 2021…
EVN cũng nêu rõ, trước bối cảnh tình hình tài chính gặp nhiều khó khăn, trong các năm 2022 - 2023, EVN đã thực hiện các giải pháp tiết kiệm, tiết giảm chi phí và tiết kiệm khoảng hơn 4.300 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm 2023.