- Nhưng không có gì có thể cản trở được sự chuyển động kỳ diệu của những chiếc xe trơ trụi ấy, những chiếc xe không có kính vẫn băng băng ra chiến trường.
- Tác giả lý giải bất ngờ và lý trí: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
+ Hình ảnh hoán dụ: Lấy hình ảnh trái tim để chỉ người lính.
+ Đối lập với tất cả những cái “không có” ở trên là một cái “có”. Một bên là hiện thực khốc liệt, một bên là sức mạnh ý chí, tình yêu nước, niềm tin, niềm hi vọng vào thắng lợi.
+ Đó không chỉ là sự ngoan cường, dũng cảm vượt lên trên mọi gian khổ ác liệt mà còn là sức mạnh của tình yêu nước.
→ Trái tim trở thành hình ảnh trung tâm của cả bài thơ và để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
* Tiểu kết về nội dung và nghệ thuật.
3. Liên hệ bản thân
- Trái tim người lính tỏa sáng rực rỡ mãi đến muôn thế hệ mai sau, khiến ta không quên một thế hệ thanh niên thời kỳ chống Mỹ oanh liệt của dân tộc.
- Khơi dậy tinh thần yêu nước và lòng biết ơn trong mỗi con người Việt Nam. Đó cũng là động lực để chúng ta biết sống cống hiến, sống có trách nhiệm với gia đình, quê hương, đất nước.
- Biểu hiện: Thể hiện bằng hành động cụ thể (nỗ lực học tập, rèn luyện để trở thành con người đủ sức, đủ tài; lao động tích cực; dũng cảm đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu...).
4. Tổng kết
- Khái quát lại tinh thần yêu nước được thể hiện trong khổ thơ.
- Khẳng định và kêu gọi lòng yêu nước của mỗi công dân Việt Nam.
c. Sáng tạo
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Đề 2:
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận;
Có đầy đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài: Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lý lẽ và dẫn chứng. Triển khai vấn đề:
1. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm
- Tác giả: Nguyễn Quang Sáng (1932-2014), quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Các sáng tác của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.
- Tác phẩm: Truyện ngắn Chiếc lược ngà
+ Hoàn cảnh sáng tác: Được viết năm 1966 (khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ) và được đưa vào tập truyện cùng tên.
+ Khái quát: Tình huống truyện bất ngờ mà hợp tự nhiên, đoạn trích đã thể hiện tình cha con sâu đậm và cao đẹp trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
2. Cảm nhận về tình cha con trong văn bản Chiếc lược ngà
a. Tình cảm ông Sáu: Tình cha ấm áp, sâu đậm
- Khi chia tay, ông Sáu rất lưu luyến, muốn “ôm con, hôn con” nhưng sợ con “giãy lên”, “bỏ chạy” nên ông đành đứng nhìn.
- Khi bé Thu nhận cha, ông Sáu “không ghìm được xúc động”, một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt. Chi tiết giọt nước mắt là một chi tiết tiêu biểu:
+ Đây là giọt nước mắt hạnh phúc của người cha, của những nỗi đau được xoa dịu, giống như một phép màu hàn gắn những vết thương lòng bấy lâu nay. Bởi người cha ấy không mong chờ gì hơn ngoài việc được con yêu thương, được nghe tiếng gọi “Ba…” xé lòng từ bé Thu.
+ Bên cạnh đó, giọt nước mắt ấy hé lộ phần tâm hồn giàu yêu thương của ông Sáu. Tuy trải qua những hiểm nguy mất mát nơi chiến trường (hai cuộc chiến) nhưng người lính cứng cỏi ấy đã không thể kìm được giọt nước mắt hạnh phúc trước những người yêu thương.
- Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”, “Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Chiếc lược ngà là một vật quý giá, thiêng liêng với ông Sáu, nó làm dịu đi nỗi nhớ con và chứa đựng tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của người cha với đứa con xa cách.
→ Cây lược ngà là kết tinh cho tình phụ tử: Mộc mạc mà đằm thắm, đơn sơ mà kỳ diệu.
b. Tình cảm bé Thu: Tình con trong sáng, mãnh liệt
- Trong giờ phút chia tay, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Đôi mắt ấy vừa gợi ra nỗi niềm man mác, thăm thẳm, bâng khuâng khó nói; vừa bộc lộ nỗi niềm ân hận của Thu vì những hành động chưa đúng với ba. Không chỉ vậy, đôi mắt còn ẩn chứa sự cô đơn, lạc lõng khi không ai chú ý đến nó trong giờ phút chia ly và sự đớn đau, xót xa vì ngay tại giờ phút này nó sắp phải chia xa người ba yêu dấu của mình.
→ Tất cả nỗi niềm ẩn giấu nơi đôi mắt của bé Thu chính là những biểu hiện sống động cho tình cha con sâu đậm.
- Khi Thu “thét lên”: “Ba…a…a…ba!”, đây chính là lúc tình cha con trỗi dậy, sáng rực. Tiếng gọi “ba” ấy thật thiết tha, cảm động bởi đó là tiếng “ba” mà Thu “cố đè nén trong bao nhiêu năm nay”, tiếng gọi “ba” thân thương mà trong suốt quãng đời ấu thơ của nó chưa từng cất lên. Tiếng gọi ấy còn ẩn chứa sự bùi ngùi, xót xa bởi tình yêu của Thu dành cho ba của mình lớn biết bao, vậy mà số phận trớ trêu khiến nó tàn nhẫn với ba, coi ba như người lạ và đến tận lúc chia xa, nó mới nhận ra ba nó.
- Hành động “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó” như một lời xin lỗi, như một cách bày tỏ tình yêu thương vô bờ, sự kính trọng dành cho ba.
* Tiểu kết về tình cha con ông Sáu trong văn bản Chiếc lược ngà.
3. Liên hệ với bản thân
- Xác định vấn đề: Cách bạn trò chuyện và thấu hiểu về tác phẩm Chiếc lược ngà.
- Chia sẻ cách đọc của bản thân về tác phẩm Chiếc lược ngà:
+ Đầu tiên, đọc và cảm nhận tình cảm cha con ông Sáu được thể hiện qua tác phẩm (qua tình huống truyện, cách xây dựng nhân vật, lựa chọn ngôi kể...).
+ Tiếp theo, tìm hiểu về hoàn cảnh sáng tác, liên hệ với hoàn cảnh thực của đất nước: Chiếc lược ngà viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nhiều gia đình bị chia cách, ly tán lúc bấy giờ (qua bối cảnh).
+ Cuối cùng, đặt tình phụ tử đó vào hoàn cảnh chia ly trong chiến tranh để thấu hiểu sự sâu sắc, thiêng liêng của tình cảm này, đồng thời thấy được sự tàn khốc, ác liệt của chiến tranh.
+ Từ nội dung tác phẩm, liên hệ và nhìn nhận về cuộc sống xung quanh, về tình cha con, tình cảm gia đình và tình yêu đất nước; lòng biết ơn dành cho sự hy sinh của những thế hệ đi trước trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc.
c. Sáng tạo
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Học sinh điểm thi THCS Đoàn Thị Điểm nhận xét đề thi khá vừa sức. Ảnh minh họa: Phương Lâm. |
Tổ Ngữ văn của Hệ thống giáo dục HOCMAI nhận xét cấu trúc đề thi năm nay tương tự năm 2022-2023, gồm 3 câu theo trục chủ đề và đọc hiểu 2 văn bản. Chủ đề “Để những nghĩ suy cất lên thành lời” của đề khá hay, độ phân hoá của đề thi rất tốt. Do vậy, dự kiến kiến phổ điểm trung bình dao động trong khoảng 6-7 điểm.
Về phần Đọc hiểu, các giáo viên nhận xét ngữ liệu được lựa chọn khá tốt; các câu hỏi khai thác ngữ liệu kiểm tra được cả kỹ năng đọc hiểu và kiến thức tiếng Việt của thí sinh.
Câu hỏi số 4 (ý d) của phần này rất hay, thí sinh sẽ cần tư duy về cuộc sống, quan điểm của bản thân và đưa ra cách trình bày hợp lý. Tuy nhiên, câu hỏi số 3 (ý c) là một câu hỏi vận dụng, đòi hỏi thí sinh rút ra bài học, thông điệp từ nội dung văn bản nên sẽ cần chú ý về thời gian làm bài và cân đối các nội dung.
Ở câu Nghị luận xã hội, vấn đề đưa ra được nhận xét là khá hay, đặt ra cho thí sinh sự suy nghĩ về tình yêu cuộc sống và sự lan tỏa những giá trị tích cực.
Đối với yêu cầu này, thí sinh cần đưa ra những lý giải phù hợp, dẫn chứng rõ ràng để nêu bật quan điểm về việc tạo ra, lan tỏa những điều tốt đẹp, có ý nghĩa trong cuộc sống.
Việc vận dụng các thao tác lập luận tốt, kết hợp với các dẫn chứng phù hợp sẽ là điểm nhấn cho bài làm của thí sinh. So với yêu cầu của năm trước khi chỉ ra mối quan hệ giữa thời gian và sự trưởng thành, ở câu hỏi này, thí sinh có thể dễ dàng đạt được khoảng 2-2,25 điểm.
Đối với phần thi Nghị luận văn học, các giáo viên đưa ra nhận xét như sau.
Ở đề 1, khi được yêu cầu lựa chọn một khổ thơ hoặc đoạn thơ bất kỳ để làm rõ tình yêu nước của con người Việt Nam, thí sinh có thể chọn một khổ thơ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính hoặc Mùa xuân nho nhỏ đã được học trong chương trình Ngữ văn 9 và tiến hành phân tích.
Câu hỏi này không khó, thí sinh có thể lúng túng khi lựa chọn văn bản nhưng phần làm bài sẽ không gặp trở ngại lớn vì đây là 2 tác phẩm khá quen thuộc trong chương trình phổ thông.
Ở đề 2, yêu cầu đề không mới, rất quen thuộc với thí sinh. Tuy vậy, cách đặt vấn đề của đề thi có khả năng gây nhiễu thông tin cho thí sinh.
Với yêu cầu viết bài văn nghị luận trình bày những suy nghĩ của bạn về tình cảm gia đình trong tác phẩm hoặc đoạn trích, thí sinh có thể lựa chọn văn bản trong SGK hoặc ngữ liệu ngoài, nhưng chia sẻ về “cách đọc” sẽ gây khó cho một số thí sinh khi viết vì khó để hệ thống, sắp xếp những suy nghĩ cá nhân trong thời gian ngắn. Những thí sinh thích lối tư duy mở sẽ cảm thấy hứng thú với cách đặt vấn đề này.
Sau 120 phút làm bài thi, học sinh ở điểm thi THCS Đoàn Thị Điểm rời phòng thi với tâm trạng khá thoải mái. Nhiều em nhận xét đề thi không quá mới lạ, khá vừa sức và không có câu hỏi quá khó hay đánh đố thí sinh. Một số thí sinh nói rằng dù môn Ngữ văn không phải sở trường, các em vẫn làm được khoảng 60-70% đề thi.
Chiều 6/6, thí sinh thi vào lớp 10 ở TP.HCM tiếp tục làm bài thi môn Ngoại ngữ. Môn Ngoại ngữ được ra dưới hình thức trắc nghiệm với 40 câu, thời gian làm bài là 90 phút.