- Nội dung chính của nghiên cứu là nêu ra thực trạng về chính sách và cách ứng phó của mỗi quốc gia, Mỹ và Việt Nam, đối với vấn đề chất gây nghiện và hỗ trợ điều trị cai nghiện. Nghiên cứu cũng đánh giá những thuận lợi và hạn chế trong chính sách và cách ứng phó của mỗi quốc gia đối với vấn đề chất gây nghiện để gợi ý một xu hướng chung, phù hợp cho việc ứng phó hiệu quả với vấn đề này trong tương lai.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận được sự ủng hộ và hỗ trợ về mặt học thuật từ các đồng nghiệp và nhà chuyên môn tại Đại học Montana, Hoa Kỳ và Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Quá trình tìm kiếm thông tin có chút khó khăn do có sự khác biệt về con số trong các báo cáo hay phát biểu của chuyên viên Chính phủ về vấn đề cụ thể. Đôi khi khó tiếp cận các cổng thống kê của Chính phủ hoặc thống kê không được cập nhật. Chưa có nhiều nghiên cứu ở nước ta về chính sách liên quan đến chất gây nghiện và nhiều thông tin chỉ được đưa ra trong các thảo luận trên phương tiện truyền thông và khó sử dụng làm nguồn tham khảo chính thức cho nghiên cứu…
Bên cạnh đó, một khó khăn khách quan là sự bùng phát của dịch Covid-19 khiến tiến độ phản biện và hoàn thiện nghiên cứu bị kéo dài.
- Từ khi công bố đến nay, nghiên cứu đã có ảnh hưởng như thế nào đến vấn đề chống nghiện ma túy ở nước ta? Ông có đề xuất, kiến nghị gì xung quanh vấn đề này?
- Cũng khó có thể đánh giá được vấn đề này trong thời điểm hiện tại vì nghiên cứu được công bố chưa lâu. Trong khi đó, bất kỳ một thay đổi nào trong chính sách cũng cần một thời gian nhất định để xem xét và việc đánh giá hiệu quả thực hiện. Bên cạnh đó, dịch Covid-19 kéo dài cùng các đợt giãn cách xã hội khiến sự tập trung của hệ thống chính trị vào việc duy trì sự ổn định kinh tế, xã hội khiến vấn đề về chất gây nghiện bớt được chú ý hơn.
Theo thống kê tại Mỹ, trong năm 2021, có 100 nghìn ca tử vong do sử dụng quá liều, tăng gấp 10 lần trước đó. Tại Việt Nam, năm 2021, theo thống kê của Bộ LĐ-TB&XH, có thêm 12 nghìn ca nghiện mới, tăng từ trung bình 10 nghìn ca/năm trong những năm trước đó. Điều này có thể được lý giải là do hệ thống y tế, chính trị phải tập trung vào việc chống Covid-19. Bên cạnh đó, các đợt giãn cách xã hội cũng làm ảnh hưởng nhiều đến các hoạt động, hỗ trợ từ các tổ chức và cộng đồng đối với người sử dụng chất gây nghiện…
Như đã nói ở trên, nghiên cứu chỉ ra một số hạn chế trong chính sách về chất gây nghiện tại nước ta bên cạnh những chính sách đã cho thấy khá thành công tại Mỹ hay một số nước khác. Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí khoa học Sagepub.com, nhấn mạnh sự thay đổi trong nhận thức của xã hội về vấn đề sử dụng chất gây nghiện, thay đổi nhận thức từ “tệ nạn xã hội - social evil” cần phải loại bỏ sang “vấn đề xã hội - social issue” (đây là thực tế ở Việt Nam). Một số nước châu Âu và Mỹ đã xem đây là vấn đề sức khỏe “health issue”.
Việc thay đổi nhận thức xã hội về vấn đề này giúp làm giảm sự kỳ thị trong cộng đồng đối với những người sử dụng thuốc gây nghiện. Sự hỗ trợ từ cộng đồng đối với người điều trị nghiện thuốc đã cho thấy rất có hiệu quả. Sự kỳ thị sẽ làm giảm khả năng tái hòa nhập cộng đồng của người điều trị cai nghiện, giảm khả năng tiếp cận của người điều trị với các cơ sở hay phương pháp điều trị cai nghiện… Từ đó dẫn tới khả năng tái nghiện cao của người đã điều trị cai nghiện.
Ngoài ra, sự hỗ trợ của cộng đồng và Chính phủ đối với việc tiếp cận với các phương pháp điều trị mới, bảo hiểm y tế, xã hội, việc làm sau cai nghiện... cũng là những yếu tố quan trọng có thể góp phần làm giảm tái nghiện. Đào tạo nhân viên y tế về việc kê đơn, sử dụng thuốc giảm đau gây nghiện, tăng cường kiến thức cho nhân viên y tế các cơ sở chăm sóc cai nghiện (cả người thân và cộng đồng xung quanh người điều trị cai nghiện) về chất gây nghiện, chất thay thế chất gây nghiện để có thể cung cấp sự tư vấn, hỗ trợ người điều trị một cách đúng đắn cũng là cách làm giảm tỷ lệ tái nghiện và số ca nghiện mới hàng năm.
- Trân trọng cảm ơn ông!