Chùa Dâu thuộc tổng Dâu, nay thuộc phường Thanh Khương, thị xã Thuận Thành, được biết đến là ngôi chùa cổ khởi nguồn của đạo Phật ở Việt Nam.
Trải qua gần 300 năm, những ván khắc ở chùa Dâu (huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) vẫn còn nguyên vẹn, sắc nét, thể hiện những ý nghĩa đặc biệt của Phật giáo cũng như nền văn hóa Việt Nam.
Nhân lễ hội chùa Dâu năm 2024 diễn ra từ ngày 13 đến 15/5, UBND tỉnh Bắc Ninh tổ chức lễ công bố quyết định của Thủ tướng về việc công nhận bảo vật quốc gia đối với mộc bản chùa Dâu.
Chùa Dâu thuộc tổng Dâu, nay thuộc phường Thanh Khương, thị xã Thuận Thành, được biết đến là ngôi chùa cổ khởi nguồn của đạo Phật ở Việt Nam. Chùa là một trong bốn ngôi chùa thuộc hệ thống Tứ Pháp ở Bắc Ninh bao gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện - cùng do Phật mẫu Man Nương sinh ra.
Trong mối quan hệ huyết thống ấy, bà Dâu là người con đầu - chị cả của Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Vì vậy mà chùa còn có tên gọi chùa Cả, Cổ Châu tự (viên ngọc quý).
Sở dĩ ngày nay chùa Dâu là tên gọi chính vì xưa kia ngôi chùa nằm giữa một vùng đồng bằng rộng lớn trồng dâu nuôi tằm. Cũng có thuyết nói, sau khi tượng bà Dâu tạc xong thì không ai có thể di chuyển được đi nơi khác nên bà được thờ tại đây, và ngôi chùa có tên là chùa Dâu từ đó.
Ngày nay, chùa Dâu không chỉ là một danh tích thu hút đông đảo Phật tử và khách thập phương, mà còn được ví như một “bảo tàng Phật giáo”. Cổ tự đang lưu giữ bộ tượng Phật Tứ Pháp được công nhận là bảo vật quốc gia ngày 25/12/2017, cùng nhiều tài liệu, cổ vật quý giá khác.
Vào tháng 1/2024, mộc bản chùa Dâu được Thủ tướng ký quyết định công nhận là bảo vật quốc gia. Bộ mộc bản gồm 107 ván khắc, hiện vật gốc duy nhất, độc bản, toàn vẹn và có tính xác thực.
Trong đó có 92 ván được khắc 2 mặt và 15 ván khắc 1 mặt. Tổng số mặt ván thuộc bộ mộc bản chùa Dâu hiện là 199 mặt ván với nhiều loại hình văn bản như: Truyền thuyết, kể hạnh, kinh sách, các nghi lễ cầu mưa, cầu tạnh, cúng tế...
Các nhà nghiên cứu đã tạm phân loại mộc bản thành 13 bộ khác nhau gồm: Cổ Châu hạnh, Cổ Châu lục, Cổ Châu nghi, Âm chất giải âm, Nhân quả quốc ngữ, Kỳ vũ kinh, Kỳ vũ hồng ân công văn, Thỉnh Long Vương nghi, Công đức, Mục Liên, Tam giáo, Phù chú và Tồn nghi.
Mỗi ván khắc có tiết diện hình chữ nhật, hầu hết đều có kích thước trung bình dài từ 40 - 47cm, rộng từ 19 - 24cm, độ dày ván từ 1,5 - 2,5cm. Một số ván khắc đan xen những đồ hình minh họa được bố cục chặt chẽ, hài hòa với phần văn tự.
Hồ sơ di sản cho biết, mộc bản chùa Dâu được san khắc vào thời Lê trung hưng và Tây Sơn kéo dài đến thời nhà Nguyễn. Chữ trên mộc bản đều là chữ Hán cổ và chữ Nôm được khắc âm bản, đường nét mềm mại, có tính thẩm mỹ cao nên khi in ra giấy dó rất sắc nét.
Chất liệu ván in đều được làm bằng gỗ cây thị, để chống cong vênh, người xưa đã cho xẻ một đường dọc theo đầu ván (chiều ngang ván), sâu vào khoảng 2 - 2,5cm rồi găm cật tre già vào. Trải qua gần 300 năm, những ván khắc ở chùa Dâu vẫn còn khá nguyên vẹn, đủ số chữ, rõ ràng.
Pháp Vân là con gái cả của Phật mẫu Man Nương. |
Theo cuốn sách “Sự tích đức Phật chùa Dâu” của GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng, mộc bản chùa Dâu được chế tác theo quy trình truyền thống: Chọn văn bản khắc in, chuẩn bị vật liệu (ván, giấy, mực in), khắc ván. Mỗi công đoạn cụ thể được phân việc cho từng người từ người viết chữ, thợ khắc ván.
Ví dụ: Bộ ván Cổ Châu nghi do một người họ Nguyễn ở xã Kiêu Kỵ viết chữ Hán, hiệp thợ Hồng Lục khắc chữ. Cũng bộ ván này cho biết nhà sư Thích Quảng Điều là người biên tập lại văn bản “dựa theo khoa nghi cũ mà sửa chép lại”.
Mộc bản chùa Dâu có bản là kết hợp hài hòa giữa đồ hình minh họa và văn tự theo dạng trên hình dưới chữ, hay một trang chữ một hình. Hình thức này giúp người đọc, người xem dễ hiểu dễ nhớ nội dung tác phẩm. Các bức đồ hình được chạm khắc một cách tỉ mỉ, trau chuốt, sống động.
Với việc công nhận mộc bản chùa Dâu, hiện Bắc Ninh đang có 18 bảo vật quốc gia. |
Ở mộc bản Mục Liên, mỗi mặt có khắc hình đồ minh họa được bố trí theo kiểu trên hình dưới chữ, mỗi mặt ván có 25 dòng văn tự diễn tả nội dung bức tranh phía trên. Mộc bản Nhân quả quốc ngữ, một trang là tranh Phật Thích Ca ngồi trên đài sen tay cầm hoa sen, phía dưới là An Nan Tôn Giả quỳ nghe thuyết pháp.
Mộc bản chùa Dâu cũng có những tác phẩm mang đặc trưng của chùa là các nghi thức lập đàn tràng, cách dâng sớ các ban bách thần, ngũ phương long mạch, các bài cúng cầu mưa, cầu tạnh như: Thỉnh Long Vương nghi, Kỳ vũ kinh, Kỳ vũ hồng ân công văn.
Đặc biệt nhất là mộc bản “Cổ Châu hạnh” có niên đại 1752 đời Lê Cảnh Hưng thứ mười ba. Nhà sư Tĩnh Ngộ - trụ trì chùa Dâu lúc bấy giờ cho thợ khắc ván in thành văn bản gồm 426 cặp lục bát, khắc trên 21 tấm ván, mỗi tấm in thành 2 trang (khổ 15x22 cm). Tác phẩm văn vần lục bát này được khắc ván in cùng một lúc với một tác phẩm khác bằng văn xuôi chữ Hán (có kèm theo lời dịch sang chữ Nôm).
Ngoài “Cổ Châu hạnh”, bộ mộc bản “Cổ Châu lục” cũng quý hiếm và giá trị không kém, được người Pháp sưu tầm từ đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên phải đến những năm cuối thập niên 1980, bộ ba ván khắc chùa Dâu mới được giới học thuật biết đến, trở thành nhóm tài liệu độc đáo, được giới học thuật trong nước và quốc tế sử dụng trong nghiên cứu khoa học.
Với các giá trị quý hiếm ấy, mộc bản chùa Dâu không chỉ góp phần to lớn trong nghiên cứu Phật giáo Tứ Pháp, mà còn là căn cứ quan trọng thể hiện sự công nhận của Nhà nước đối với các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật.
Đồng thời, việc công nhận bảo vật quốc gia mộc bản chùa Dâu cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý để bảo tồn và phát huy giá trị di sản lâu dài và bền vững.
Vào thời Trần, chùa Dâu được Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho xây dựng lại với quy mô “chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp”. Đến nay, ngoài bảo vật quốc gia bộ tượng Phật Tứ Pháp vùng Dâu và bộ mộc bản, chùa Dâu còn giữ được nhiều di sản văn hóa quý giá như: Gần 100 pho tượng Phật, 22 bia đá, chuông đồng, khánh đồng thời Lê, Tây Sơn, Nguyễn.