- Còn nhiều băn khoăn về hệ thống BĐCL bên trong và bên ngoài của cơ sở GDĐH. Cần giải pháp nào để hoàn thiện, nâng cao chất lượng của hệ thống này, theo ông?
- Hệ thống GDĐH Việt Nam bước đầu đã hình thành một hệ thống bảo đảm chất lượng tương đối hoàn chỉnh với 7 trung tâm KĐCLGD và 6 trung tâm nước ngoài đủ điều kiện hoạt động kiểm định - thành tố BĐCL bên ngoài. Đồng thời, thành lập các đơn vị BĐCL tại cơ sở GDĐH - thành tố cơ bản của hệ thống BĐCL bên trong. Hai hệ thống này có quan hệ chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau.
Theo Điều 49, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học 2018, BĐCL giáo dục ĐH là quá trình liên tục, mang tính hệ thống, bao gồm các chính sách, cơ chế, tiêu chuẩn, quy trình, biện pháp nhằm duy trì và nâng cao chất lượng giáo dục ĐH. Theo đó, hệ thống BĐCL giáo dục ĐH được thiết lập bao gồm hệ thống BĐCL bên trong và bên ngoài thông qua cơ chế KĐCL. Hai hệ thống BĐCL trong GDĐH ở Việt Nam đã hình thành và đang có chiều hướng ổn định, phát triển.
Trong bối cảnh hội nhập về GDĐH diễn ra mạnh mẽ, việc thực hiện cơ chế BĐCL từ bên trong của cơ sở GDĐH, trong đó có tự đánh giá, cải tiến chất lượng liên tục các mặt hoạt động và thực hiện cơ chế KĐCLGD, đối sánh, xếp hạng từ bên ngoài trở thành một trong những cơ chế BĐCL được quan tâm hàng đầu. Điều này đòi hỏi mỗi cơ sở GDĐH phải chủ động xây dựng chính sách/chủ trương rõ ràng về chất lượng và thực hiện BĐCL giáo dục từ bên trong, để khẳng định uy tín, vị thế và hội nhập với nền GDĐH toàn cầu.
Giải pháp về chính sách đóng vai trò rất quan trọng để cơ sở GDĐH thực hiện thống nhất các hoạt động trong hệ thống BĐCL bên trong. Xây dựng các giải pháp chính sách cần tham khảo, học hỏi mô hình của các quốc gia có nền GDĐH phát triển, đồng thời kết hợp với điều kiện thực tế của GDĐH Việt Nam đang có đà phát triển rất nhanh. Cụ thể như sau:
Ở cấp cơ quan quản lý Nhà nước, Bộ GD&ĐT định hướng, tiếp tục xây dựng hướng dẫn cho cơ sở GDĐH trong xây dựng hệ thống BĐCL bên trong, song hành với xây dựng văn hóa chất lượng. Trong thời gian tới, Bộ GD&ĐT sẽ ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cơ sở GDĐH xây dựng hệ thống BĐCL bên trong hiệu quả ở nhiều cấp.
Cấp cơ sở GDĐH, cần tập trung chỉ đạo, triển khai xây dựng chiến lược, chính sách, kế hoạch BĐCL cụ thể phù hợp với chiến lược phát triển của cơ sở GDĐH; xây dựng/cập nhật quy định, hướng dẫn về BĐCL bên trong; công khai chính sách về chất lượng và BĐCL trên website, phổ biến đến các bên liên quan.
Từng bước xây dựng, hình thành văn hóa chất lượng tại cơ sở GDĐH. Xây dựng tiêu chí về thi đua trong công tác BĐCL để khen thưởng đối với cá nhân, tập thể hằng năm. Xây dựng Sổ tay BĐCL/sách chuyên khảo về công tác BĐCL. Thường xuyên kiểm tra, rà soát, cập nhật, cải tiến chính sách về công tác BĐCL giáo dục trong từng bối cảnh mới.
- Phần lớn cơ sở GDĐH đã hoàn thành 1 chu kỳ kiểm định, ông nhận thấy cần điều chỉnh những gì khi chuẩn bị bước vào chu kỳ kiểm định thứ hai?
- Cần phải có các giải pháp đột phá cho chu kỳ KĐCLGD mới đối với cơ sở GDĐH, góp phần nâng tầm cho GDĐH Việt Nam hiện nay theo hướng tự chủ ĐH. Công tác tự đánh giá và KĐCLGD chu kỳ đầu tiên đã giúp cho việc tổng rà soát công tác quản trị và quản lý ĐH ở quy mô toàn hệ thống. Công tác KĐCLGD tạo điều kiện cho mỗi trường ĐH và cả hệ thống nhìn nhận toàn diện mô hình BĐCL cụ thể được áp dụng ở Việt Nam, từ tiếp cận các mô hình bảo đảm và KĐCLGD quốc tế. Bước vào chu kỳ kiểm định thứ 2 đối với phần lớn cơ sở GDĐH, cần thực hiện điều chỉnh hệ thống ở những phương diện sau:
Cần có đánh giá tổng thể mang tầm quốc gia về toàn hệ thống KĐCLGD (bao gồm cả KĐCLGD mầm non, phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và GDĐH); xác định rõ ràng và xa hơn đối với tầm nhìn của hệ thống KĐCLGD. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý điều hành về bảo đảm và KĐCLGD đối với GDĐH. Nâng cao năng lực của hệ thống BĐCL bên trong cơ sở GDĐH. Phát triển, nâng cao năng lực tổ chức KĐCLGD.
Tăng cường năng lực cho đội ngũ công chức làm công tác xây dựng chính sách về KĐCLGD. Nâng cao chất lượng, bảo đảm về số lượng kiểm định viên đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia, tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, cần có giải pháp truyền thông đầy đủ để khẳng định chất lượng của cơ sở GDĐH từ quá trình KĐCLGD, giúp người học, nhà tuyển dụng lao động có thêm cơ sở để lựa chọn học tập, hợp tác. Tham khảo kinh nghiệm để rút ngắn khoảng cách KĐCL GDĐH Việt Nam với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.
- Xin trân trọng cảm ơn ông!
PGS.TS Huỳnh Văn Chương nhấn mạnh: Với tiếp cận xuyên suốt theo hướng quản lý chất lượng đầu ra, việc “đánh giá đạt chuẩn đầu ra CTĐT” được xem là yêu cầu mới đối với quản lý chất lượng đào tạo. Theo đó, cơ sở GDĐH không chỉ minh bạch chuẩn đầu ra cho các bên liên quan mà còn phải cung cấp được minh chứng người tốt nghiệp đạt những chuẩn đầu ra mà cơ sở GDĐH đã tuyên bố trước đó. Quản lý xây dựng, thực hiện chuẩn đầu ra và “sử dụng kết quả đánh giá CTĐT để cải tiến chất lượng liên tục” là triết lý chính của BĐCL mà các nước có nền giáo dục tiên tiến đang áp dụng.