Giữa nơi vùng cao biên giới, hơn mười năm qua cô giáo Lô Thị Niệm lặng lẽ đi qua những con dốc đá gập ghềnh để giữ học trò ở lại với con chữ.
Ở xã biên giới Keng Đu (tỉnh Nghệ An), mỗi ngày đến trường của giáo viên là một cuộc vượt đèo, băng rừng đầy hiểm trở. Thế nhưng, với cô giáo Lô Thị Niệm, đó cũng là hành trình của niềm tin, của tình yêu nghề và khát vọng gieo chữ cho những học trò vùng cao biên giới.
Xã Keng Đu là một trong những xã xa xôi nhất của tỉnh Nghệ An. Con đường lên bản quanh co giữa núi, mùa khô nắng rát, mùa mưa lũ thì bị chia cắt, bùn đất quánh lại dưới chân người đi. Ngôi trường nhỏ, Trường PTDTBT Tiểu học Keng Đu 2, nằm lọt thỏm giữa thung lũng sương mù, nơi tiếng chim rừng hòa cùng tiếng cười của học trò trở thành thanh âm thân thuộc mỗi sáng.
Cô kể, ngày đầu tiên đến nhận công tác là một ký ức không thể nào quên. Từ sáng sớm, hai bố con đi xe máy, vừa đi vừa hỏi đường. Càng đi càng thấy con đường như dài ra mãi. Đường rừng dốc cao, trơn trượt, cứ tưởng đi mãi chẳng tới nơi. Mãi đến chiều muộn, khi nhìn thấy cổng trường, cô mới thở phào nhẹ nhõm.
Những ngày đầu tập làm quen dần với nhịp sống ở bản, rào cản ngôn ngữ là khó khăn lớn nhất. Là người Thái, cô chưa hiểu hết phong tục, tập quán và tiếng nói của đồng bào Khơ Mú. Căn nhà tạm dân bản giúp dựng tạm chỉ cần một cơn mưa lớn là dột tứ tung, ướt cả chiếu chăn. Đêm đầu tiên giữa rừng núi xa nhà, cô giáo trẻ ấy bật khóc vì tủi thân.
Dần dần, cô Niệm cũng quen với cuộc sống mới. Mỗi sáng 5 giờ, trong cái rét cắt da của vùng biên giới, cô cùng các thầy cô khác dậy nhóm bếp, góp gạo nấu ăn chung rồi chuẩn bị cho một ngày dạy học. Đúng 7 giờ, cô bắt đầu tiết học đầu tiên.
Qua thời gian gần gũi, cô mới biết phần lớn học sinh của mình đều có hoàn cảnh đặc biệt, bố mẹ đi làm ăn xa, nhiều em phải sống với ông bà, thậm chí có em còn nhỏ đã phải tự chăm sóc bản thân. Các em không chỉ thiếu thốn về đồ dùng học tập, quần áo đến trường, mà còn hạn chế trong giao tiếp bằng tiếng phổ thông.
“Khi ấy trong tôi dần nhen nhóm lên suy nghĩ phải làm sao để giúp học trò, không cần làm gì lớn lao mà chỉ cần giúp một thế hệ học sinh vùng cao tiếp cận tri thức thôi, cũng là thắp lên tia sáng cho cả cộng đồng đổi thay”, cô chia sẻ
Cô bắt đầu mong muốn ấy từ điều giản dị nhất là làm sao gần gũi được với học trò. Mỗi buổi sáng cô đi chào bà con trong bản, hỏi thăm chuyện nương rẫy, nhận về bó rau, quả bí như món quà thân tình. Cũng từ những câu chuyện mộc mạc ấy, cô học được ngôn ngữ của họ, học cách “nói cho trò hiểu, dạy cho trò nghe”.
Trên lớp, cô dùng song ngữ để giảng bài, trò chưa hiểu, cô kiên nhẫn giải thích lại bằng tiếng địa phương. Ngoài giờ học, cô cùng học sinh chơi trò dân gian, kể chuyện bằng tiếng Việt để luyện nói.
"Ba năm trở lại đây, khi nhà trường được tổ chức dạy học bán trú, cuộc sống của học trò đã khác xưa nhiều. Các em được ăn ở tại trường, có bữa cơm ấm nóng, có nơi ngủ nghỉ sạch sẽ. Nhà trường lập Ban vệ sinh thực phẩm để chăm lo từng bữa ăn, còn buổi tối, các giáo viên như cô Niệm lại cùng học sinh học tiếng Việt, tham gia câu lạc bộ văn nghệ, thể thao. Từ ngày có bán trú, các em thích đi học hơn, chẳng còn em nào bỏ học hay nghỉ học dài ngày nữa”, Lô Thị Niệm ánh mắt ánh lên niềm vui.
Những năm đầu công tác, trong bối cảnh xã Keng Đu còn thiếu thốn đủ đường, điện chập chờn, Internet gần như không có, thiết bị dạy học tối thiểu cũng khan hiếm, việc đổi mới phương pháp giảng dạy với cô giáo Lô Thị Niệm là một thách thức thực sự.
Nhưng cô và các đồng nghiệp không nản lòng. Thay vì chờ đợi, chủ động khai thác những hình thức dạy học phù hợp, tích hợp trải nghiệm bằng các vật liệu đơn giản, gần gũi, lồng ghép văn hóa địa phương để học sinh dễ tiếp thu. Từ sỏi đá, que củi, lá cây, hạt ngô… tất cả đều có thể trở thành “đồ dùng dạy học” sinh động nếu biết cách lồng ghép khéo léo.
“Với học sinh dân tộc thiểu số, nếu áp dụng máy móc phương pháp sư phạm đã học thì không hiệu quả mà phải cải biên đi cho phù hợp, ví dụ một tiết học 35 phút có thể cô chỉ dạy một âm, vần cho đến khi trò hiểu thì thôi”, cô chia sẻ.
Những năm gần đây, khi điều kiện dạy học có nhiều chuyển biến tích cực, điện lưới quốc gia được kéo về xã, Internet bắt đầu có tín hiệu dù còn chập chờn. Cô Niệm như được tiếp thêm năng lượng mới để đổi mới phương pháp. Từ chỗ chỉ quen với phấn trắng, bảng đen, cô bắt đầu làm quen với công nghệ thông tin.
Với chiếc điện thoại cũ, cô tranh thủ từng lúc có sóng để tra cứu tài liệu, học cách soạn giáo án điện tử, thiết kế bài giảng bằng PowerPoint, tạo trò chơi học tập trực tuyến hay tổ chức dạy học qua Zalo, Facebook, Google Meet trong thời gian học sinh nghỉ dịch.
Ban đầu, mọi thứ đều khó khăn. Từ thao tác mở tệp Word cho đến việc tạo một bài trình chiếu, tất cả đều mới mẻ và xa lạ. Nhưng cô không nản mà tự học mọi lúc có thể, buổi tối sau khi con ngủ, sáng sớm trước giờ đến lớp, và tham gia các lớp tập huấn khi có cơ hội. Kiên trì từng bước, từ những bài giảng đơn giản nhất, đến khi có thể tự thiết kế trò chơi tương tác, tổ chức hoạt động nhóm bằng công cụ trực tuyến.
Cô Niệm cho rằng, chính sự thay đổi từ nhận thức đến hành động là bước ngoặt giúp mình không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy. Sau nhiều năm kiên trì học hỏi, cô nhận ra công nghệ không phải là rào cản, mà là cơ hội nếu biết nắm bắt và linh hoạt vận dụng.
“Quan trọng nhất vẫn là trái tim người thầy phải luôn hướng về học trò. Mỗi tiết học, dù giản dị đến đâu, cũng cần trở thành một hành trình khơi mở tri thức, gieo mầm ước mơ cho những học sinh vùng cao còn nhiều thiếu thốn”, cô chia sẻ.