Với cảm thức mạnh mẽ trước bước đi của thời gian, tác giả của những câu Kiều đã từng chắp bút “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”.

(Chờ nhau)

Ở ý thơ trong “Mưa xuân” không còn cái nghĩa không chắc chắn nữa mà hiển nhiên là tình yêu đã nở trong lòng cô gái. Tình yêu mới chỉ hàm tiếu như nụ cười còn ngậm trong miệng chứ chưa thể là hoa nở hết cỡ kiểu mãn khai. Bởi vậy mà vẫn còn những mơ mộng đến cả tin, những phỏng đoán đến ngây thơ từ cô gái. Không còn ngại ngùng e ấp nữa, cô gái gieo hi vọng được gặp chàng trai trong đêm hội làng. Cô ngửa lòng bàn tay ra ướm đo mưa và tin tưởng:

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn

Em ngửa bàn tay trước mái hiên

Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh

Thế nào anh ấy chả sang xem.

Cái cách đo mưa bằng lòng bàn tay thật trong sáng và mới đáng yêu làm sao! Có một sự thôi thúc để cô gái ấy quả quyết và đinh ninh một ý nghĩ là sẽ gặp được người tình mong đợi. Chính bởi sự thôi thúc nên cô “bứt mình khỏi khung cửi để bước ra với mùa xuân, tự mình làm một con thoi để dệt nên mối tình đầu”:

Em xin phép mẹ vội vàng đi

Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe

Mưa bụi nên em không ướt áo

Thôn Đoài cách có một thôi đê

Khi trong lòng đã sẵn ý tình, khi tình nổi gió và... màu yêu lên sóng mắt thì mọi thứ thật háo hức, thật hấp tấp và vội vàng. Ta đọc được trong bước chân của cô gái ấy bước chân của cô Kiều ngày xưa khi sang với Kim Trọng: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”, “Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường”... Bởi háo hức được gặp để thỏa lòng mong nhớ nên tất cả mọi ý nghĩ len lỏi trong đầu cô gái chỉ là ngụy biện. Bước chân trở nên nhanh hơn, tất tả hơn, bươn bả hơn: Mưa bụi có hề chi “không ướt áo”, đường gần có hề xa chỉ “cách một thôi đê”.

Những câu thơ trên là tin xuân, ý xuân phơi phới, phập phồng trong trái tim thiếu nữ.

...Để cả mùa xuân cũng lỡ làng!

Sẽ không có chuyện gì để nói nếu cô gái gặp được chàng trai. Thế nhưng, điều đặc biệt ở đây là nỗi đợi chờ không đến. Ánh mắt cô gái dáo dác tìm gặp cho được bóng dáng người thương, nhưng không thấy:

Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

Em mải tìm anh chả thiết xem

Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

Những câu thơ là lời tự thuật về một tâm trạng khắc khoải thiết tha. Đã “Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa” nhưng rốt cuộc trong cái thâu đêm rộn ràng tiếng trống chèo đó, một con người bỗng nên bơ vơ, lạc lõng vì không gặp được người thương. Nỗi buồn đã đậu xuống sóng mắt nên cái cớ: “Mẹ bảo: thôn Đoài hát tối nay” và cái mục đích “Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe” dường như bất thành. Lòng cô trống hoang, còn đâu tâm trí để xem hát nữa. Mọi thứ bỗng chốc xáo trộn. Cô nghĩ thương giường cửi lạnh, thương thoi ngà. Cô phụ giường cửi, thoi ngà thì lại bị chính anh chàng phụ cô. Phải chăng quyết định đi xem hát là sai lầm, là vụng dại:

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang

Thế mà hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng lỡ làng!

Nguyễn Bính đã bắt đúng được cái giọng quê trong lối nói rất gần với người quê bởi cách nói “chờ mãi”, “thế mà” đầy dỗi hờn, trách móc. Chờ đợi hoài công đến thâu đêm, cô đành ngậm ngùi ra về nhưng không khỏi xót xa. Lời thơ từ giận cho người mà tủi cho mình. Anh hẹn sang mà chẳng sang, vậy mà hôm trước năm lần bảy lượt hẹn người ta. Ý thơ bắt đúng cái sự hào phóng trong hứa hẹn những lời chót lưỡi đầu môi của các chàng trai và sự cả tin của các cô gái. Anh chàng tệ bạc đến thế là cùng. Đáng thương thay cho cô gái với mối tình đầu chớm nở như nụ hoa xuân bỗng chốc bị trận gió phũ phàng thổi rụng. Đó là những tổn thương đầu đời mà ở “Cái buổi ban đầu lưu luyến ấy/ Nghìn năm chưa dễ đã ai quên” (Thế Lữ).

Mưa xuân kết thúc bằng một điệp khúc buồn như một sự đối trọng với những ý thơ trước. Từ “vội vàng đi” cô gái “lầm lụi về”. Mưa xuân cũng chẳng “mưa bụi” nữa mà trở thành “Mưa nặng hạt”. Lúc trước “mưa xuân phơi phới bay”, bây giờ “mưa xuân đã ngại bay”. Những làn hoa xoan rụng bỗng trở nên xác xơ “hoa xoan đã nát dưới chân giày” chứ không còn “lớp lớp rụng vơi đầy”. Mọi thứ thật não nề theo bước chân lầm lụi của cô gái. “Áo mỏng che đầu sao khỏi ướt, dải đê ngắn bỗng trở nên dài” (Lê Quang Hưng). Những câu thơ cất lên như một tiếng lòng thổn thức:

Mình em lầm lụi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê

Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”.

Lúc đi và về, cảnh trước và sau có một sự tương phản rõ nét. Tất cả bởi chính tâm cảnh chi phối ngoại cảnh. Thật đúng như cụ Nguyễn Du từng đúc kết “Tẻ vui bởi tại lòng này”.

Từ hăm hở đi xem hội làng, cô gái trở về với bao hẫng hụt. Lòng trẻ đã không còn như thoi sợi trắng nữa rồi. Bài thơ kết thúc với nỗi lòng trong chín nhớ mười mong. Sự lỗi hẹn của chàng trai làm trái tim cô gái chớm nở đã vội tàn. Dẫu vậy, cô gái vẫn không nguôi tắt một niềm hi vọng:

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây

Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng: Hát tối nay?

Câu thơ cất lên như một sự thảng thốt, một niềm tiếc nuối, một sự hoài vọng ngóng trông. Phép điệp cú pháp bởi ý thơ “Mùa xuân đã cạn ngày” trở đi trở lại. Ngày xuân đã cạn thật rồi, tuổi xuân của cô thiếu nữ cũng hao khuyết đi bởi một mùa xuân lạnh. Trong cái buồn của nỗi niềm “mùa xuân đã cạn ngày” thì sự háo hức của những mùa xuân sau cũng cạn vơi đi một nửa. Với lối nói dân gian Bao giờ cho đến bao giờ gợi ra thời gian dằng dặc nhưng cũng chính là không gian xa lắc của tình cảm, nhớ thương. Biết bao giờ cô gái đó mới được trở lại với nỗi xốn xang hồi hộp như ngày nào... Biết bao giờ để cô gái lại được nghe mẹ bảo, lại được thấp thỏm chờ và tìm như “bữa ấy”?

Mùa xuân trong thơ Nguyễn Bính dù ở cung bậc cảm xúc nào cũng đều mê hoặc và quyến rũ lòng người: Những nỗi lòng, khắc khoải chờ mong, sự nhớ thương da diết. Những xúc cảm đó hòa vào cảnh sắc và bóng dáng con người trong thơ ông thấm đượm tình quê, duyên quê, phảng phất ý vị và vẻ đẹp “chân quê”. Mùa xuân không chỉ là ám ảnh mà còn trở thành định mệnh trong đời thơ Nguyễn Bính. Vì thế, có lẽ không ai viết về mùa xuân nhiều như Nguyễn Bính và cũng không ai viết buồn như Nguyễn Bính. Nguyễn Bính ra đi ở tuổi 48 vào 29 Tết xuân Bính Ngọ (1966). Cái buồn và mùa xuân trong thơ của ông dường như được vận vào cả cuộc ông vậy: “Năm mới tháng Giêng mùng Một Tết/ Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân” (Nhạc xuân).

Theo giaoducthoidai.vn
https://giaoducthoidai.vn/ket-noi/nguyen-binh-nang-long-voi-mua-xuan-pYfyRqanR.html
Copy Link
https://giaoducthoidai.vn/ket-noi/nguyen-binh-nang-long-voi-mua-xuan-pYfyRqanR.html
Bài liên quan
Trường học ở Cần Thơ khởi động bếp ăn trở lại
Ngay sau khi thống nhất tổ chức bán trú cho học sinh, các cơ sở giáo dục mầm non và tiểu học gấp rút chuẩn bị nhân sự và cơ sở vật chất, khởi động lại bếp ăn trường học.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Nguyễn Bính nặng lòng với “mưa xuân”