Trong văn bản nghệ thuật, câu hỏi tu từ là một trong các biện pháp nghệ thuật nhằm nhấn mạnh nội dung mà người nói muốn biểu đạt. Cứ ngân nga, ta càng hiểu câu thơ bộc lộ trạng thái tâm lý với đầy cảm xúc của nhà thơ. Tác giả tự hỏi chính mình, chứ không hỏi ai khác. Mark Epstein (giảng viên Đại học New York, Mỹ) đã trình bày ý kiến của mình về ngôn ngữ độc thoại trong Con đường vô ngã: “Người đọc hoặc nghe ngôn ngữ của chính mình sẽ tự động tìm cách xác lập ý nghĩa cho nó”.
Những từ, những ngữ vang lên trong bản ngã, hay nói rõ hơn đó là những chuỗi ngôn ngữ độc thoại trong tâm thức của mình. Xác thực trong văn cảnh thì đây cũng không phải là câu nghi vấn giao tiếp với một ai. Nó được thốt lên từ nội tâm nhà thơ, do vậy, cuối câu thơ không cần phải đặt dấu chấm hỏi.
Tôi rất tâm đắc về một ý kiến đăng trên trang web của Công ty Cổ phần Tin học Lạc Việt, Chương Củng cố kiến thức: “Không phải tất cả các câu nghi vấn đều kết thúc bằng dấu chấm hỏi”. Và… cái đêm gì nhỉ sẽ được Hữu Thỉnh làm rõ trong những câu thơ sau.
Tiếp đến, câu thơ thứ hai: “Rét biến thành dây để trói tôi”. Câu thơ mô tả một hình ảnh rất thực, rất đời thường. Một người đang chịu đựng cái lạnh giá đến mức rét buốt của thời tiết, đến nỗi hai bàn tay phải tìm nơi ẩn trú loanh quanh ngay trong cơ thể của chính mình. Hình ảnh ấy được tác giả ví như một người đang bị trói. Sự liên tưởng nghe qua thật hài hước.
Ai đã từng trải qua cái rét sẽ càng thấu hiểu, cảm thông, xúc cảm trước hình ảnh này. Thời điểm bấy giờ (1987), nhà thơ đang ở Liên Xô. Giá lạnh đến rét chắc là đang vào mùa Đông. Mùa Đông nước Nga kéo dài đến nửa năm, từ tháng 10 tới tháng 3, với đêm thì dài mà ngày thì ngắn.
Từ 16, 17 giờ, trời đã tối, và mãi tới 8, 9 giờ sáng hôm sau mới rõ mặt người. Nước Nga nổi tiếng là một trong những xứ sở lạnh nhất trên thế giới với nhiệt độ có khi tới -55, - 60 độ C ở vùng Bắc cực. Ở các vùng khác trên toàn lãnh thổ Nga, nhiệt độ cũng dao động từ 0 đến -40 độ C. Từ cái lạnh ở Việt Nam, ta càng thấm thía sự hứng chịu trước cái rét của nước bạn.
Câu thơ kế tiếp: “Em kề bên hoa trước mặt”, theo tôi, như là một giả định, một cảm thức lãng mạn của nhà thơ trong một không gian trống vắng. Bạn đọc sẽ dễ nhận ra hình ảnh em kề bên… chỉ là một ảnh ảo, là nhân vật tâm tưởng xuất ra từ trong sự rung động của trái tim nồng cháy, đa cảm của người nghệ sĩ mà thôi.
Liên hệ hình ảnh, trạng thái cô đơn của nhà thơ ở câu thơ trên: “Rét biến thành dây để trói tôi”, ta càng nhận ra sự “trái khoáy”, không thực. Có chuyện kể rằng, tại chương trình nhân kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Hội Nhà văn Việt Nam được mở đầu bằng buổi giao lưu cùng thầy và trò Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội với chủ đề “Văn chương và bục giảng”, một nữ sinh hỏi nhà thơ Hữu Thỉnh: “Xin nhà thơ cho biết người con gái trong “Thơ viết ở biển” có phải người tình của bác không?”.
Ông trả lời: “…Chẳng có người tình nào cả”. Ông đã bộc bạch về mình trong bài thơ Chăn - đa em ơi: “Cũng tại tôi đa tình/ Nên bây giờ mới khổ”. Mà cũng biết đâu, cái ảnh ảo đó lại giúp cho tâm hồn đa cảm kia ấm lại, quên đi cái rét căm của đất trời! Nhưng cho dù là một ảnh ảo, là mộng tưởng của nhà thơ, thì câu thơ thứ 3 cho ta càng cảm thông sự hiu quạnh, trống vắng của thi sĩ trước cái rét đang xâm chiếm tâm hồn anh.
Chính ngoại cảnh đã tác động đến thế giới nội tâm của nhà thơ. Phải chăng đó là sự rung cảm đến cực đỉnh chỉ có ở những trái tim lớn của những nghệ sĩ thăng hoa đến như vậy? Trở về với đời thực, ta có thể nói, cái lạnh lòng người còn đáng ghê sợ hơn bội phần.
“Ngày mai thương nhớ đã qua trời”. Đây là câu thơ cuối cùng như một cánh cửa thời gian khép lại, gói gọn những gì đã trang trải, giãi bày, tâm sự qua các câu thơ trên. Cụm từ Ngày mai chỉ thời gian cận tương lai, nhưng nó có giá trị thông báo cho sự kết thúc: “…thương nhớ đã qua trời”.
Có sự trái nghịch về cách dùng từ ở đây. Đã dùng trạng ngữ “Ngày mai”, sao lại có từ “đã”? Đây không phải là văn nói của một vài MC thường vấp phải trên một số kênh truyền hình, mà đây là một câu thơ của một nhà thơ lớn. Cho nên ta phải xem xét dưới cái nhìn ngôn ngữ của nghệ thuật.
Tôi chợt nhớ đến phát ngôn của nhà thơ Nguyễn Hữu Quý: “Thơ Hữu Thỉnh vốn đa nghĩa, cái hay không chỉ nằm ở bề mặt mà thường ẩn giấu sâu sắc ở tầng sâu”. Tìm nghĩa của ngôn ngữ thơ chủ yếu là tìm hiểu ngôn ngữ của nhân vật trữ tình. Vẫn biết cái tôi trữ tình trong thơ và cái tôi của nhà thơ không hề đồng nhất. Cái tôi của nhà thơ ngoài đời thuộc phạm trù xã hội học, còn cái tôi trữ tình trong thơ thuộc phạm trù nghệ thuật.
Cái tôi trữ tình là cái tôi nhà thơ đã được nghệ thuật hoá và trở thành một yếu tố nghệ thuật phổ quát trong thơ trữ tình. Tôi cho rằng, câu thơ cuối cùng được xem như là một cách phát ngôn nghệ thuật ẩn chứa tâm trạng, nỗi niềm sâu kín của tác giả. Lúc này, Đêm nay, là thời điểm mà nhà thơ đang muốn níu kéo thực tại, muốn thời gian “ngừng trôi” để Ngày mai chậm lại, nếu không thì những gì tốt đẹp nhất chỉ còn là thương nhớ.
Vì Ngày mai sẽ kết cục, mỗi phương trời cách biệt. Trước cụm từ Ngày mai như có từ NẾU vô hình, cho nên những gì hôm nay sẽ thuộc vào dĩ vãng, khi không gian đã cách biệt. Từ đã được sử dụng rất đắt để chỉ thời điểm quá khứ. Sự dùng dằng về thời gian, cả sự dùng dằng trong bản thể nhà thơ đã nâng tần số cảm xúc lên cao.
Nhìn toàn bài thơ, chúng ta nhận ra vai trò của cấu tứ rất quan trọng. Nó tạo nên hồn thơ, bộc bạch nên những điều, những nghĩ suy rất riêng, rất khắc khoải trong tâm của thi sĩ. Phải thật là tinh mắt, người đọc mới nhận ra cái tôi trữ tình của nhà thơ. Nhân vật trữ tình là đấy!
Bây giờ, chúng đã nhận diện ra được nhân vật trữ tình của bài thơ. Đó là khối tình cảm sắt son của tác giả xuất phát từ nơi đã gieo vào tâm hồn nhà thơ, những rung cảm khó quên nhất, những dấu ấn rất sâu đậm, những thương nhớ đã qua trời khi Ngày mai mở ra một ngày mới.
Nhà thơ Hữu Thỉnh đã rất tài tình, biết chắt chiu khi thêu dệt nên nhân vật trữ tình chỉ bằng 4 câu thơ, với nghệ thuật dùng từ độc đáo mà đa nghĩa, hình ảnh được chọn lựa một cách dung dị mà sâu sắc, rất gợi cảm. Chúng ta đừng quên ý nghĩa của nhan đề bài thơ. Sau khi cày xới các tầng nghĩa của các từ ngữ của 4 câu thơ, tới đây, chúng ta được hiểu thêm giá trị biểu đạt của nhan đề bài thơ Ấm lạnh.
Ấm là từ chỉ sự ấm áp, nồng nàn về mối tình khó quên của nhà thơ và nơi mình đến. Còn lạnh, tuy rét đến mức tột độ của thời tiết xứ bạch dương, nhưng đó cũng chỉ là chất xúc tác, khiến cho tình cảm trân quý kia càng thêm nồng cháy. Như Martin Heidegger (một triết gia Đức) đã nhận định, con người không nói ngôn ngữ mà ngôn ngữ nói con nguời.
Qua những cảm nhận trên, bằng nghệ thuật dùng từ rất điêu luyện, hình ảnh giản đơn, khéo chọn lọc, kết cấu bài thơ hợp lý, chặt chẽ, những trường hợp tưởng như sai với cú pháp, nhưng đặt trong văn bản nghệ thuật, chúng ta tiếp nhận sâu sắc giá trị biểu cảm của khối tình mặn mà, sự gắn kết của nhà thơ với một xứ sở xa xăm nhưng vô cùng chung thủy, đậm sâu. Chính những cái nghịch về ngôn từ trong bài thơ đã khẳng định bút pháp nghệ thuật độc đáo, tạo nên một phong cách rất riêng của nhà thơ Hữu Thỉnh.
Với 27 chữ, bài thơ đã khắc họa nên một nhân vật trữ tình vô cùng ấn tượng, gợi trong mỗi chúng ta nhiều cảm xúc về tình người, về sự chí tình giữa hai dân tộc Việt - Nga trong những năm tháng không thể nào quên. Mối quan hệ ấy như một “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt tạo nên mạch nguồn cảm hứng tuôn chảy trong mỗi tác phẩm, là những ngày tháng, kỷ niệm sâu sắc không thể quên của chính những người trong cuộc như nhà thơ Hữu Thỉnh qua những năm tháng học tập, công tác ở xứ sở bạch dương.