Chưa kể điều này cũng ảnh hưởng đến đầu ra, cơ hội việc làm của người học, bởi chất lượng đào tạo đã giảm còn phải cạnh tranh với nhiều người sau khi ra trường… Nếu thực sự vì người học, vì mục tiêu chất lượng, bản thân các trường sẽ có giải pháp để không vi phạm; cải tiến chương trình đào tạo, dũng cảm bỏ đi những ngành không còn phù hợp, xã hội quá ít nhu cầu...
Hiện nay, hệ thống cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam phát triển không đồng đều, quy mô đào tạo khác nhau. Có những trường lớn, uy tín, chất lượng, nhưng còn không ít trường tư thục và trường trực thuộc địa phương quy mô nhỏ và rất nhỏ, lĩnh vực đào tạo hẹp, hoạt động kém hiệu quả.
Việc một trường nào đó có tỷ lệ thí sinh ảo quá lớn, thí sinh đăng ký mà không nhập học, tỷ lệ bỏ học cũng phần nào thể hiện uy tín, chất lượng của trường. Không dễ dãi khi tuyển vượt sẽ khiến các trường này buộc phải nâng mình lên để trở thành lựa chọn đầu tiên của người học. Đó đồng thời là cú hích, đòi hỏi trường phải cải tiến chất lượng; thanh lọc những trường quá yếu kém.
Cũng phải nói rằng, hiện nay các trường ĐH của Việt Nam chủ yếu “sống” bằng học phí, dẫn tới phải tìm mọi cách để tuyển cho đủ số lượng sinh viên. Nguồn lực và cơ chế tài chính đang được cho là điểm nghẽn lớn nhất của giáo dục đại học. Đầu tư cho giáo dục đại học chưa thực sự được coi trọng.
Tỷ trọng chi ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực này tính trên tổng chi ngân sách Nhà nước cho GD&ĐT chỉ chiếm khoảng 4,6%, chỉ bằng 1/5 đến 1/6 tỷ trọng trung bình của các nước OECD và một số nước khu vực ASEAN. Do đó, đổi mới cơ chế phân bổ tài chính; tăng cường đầu tư tài chính và nguồn lực cho các cơ sở giáo dục đại học; nâng cao tỷ lệ chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học trong hoạt động GD-ĐT nói chung chính là giải pháp căn bản, lâu dài.