Nền văn hóa đậm đà bản sắc, vốn di sản phong phú, nguồn nhân lực sáng tạo dồi dào - đó là những tài nguyên vô giá, nền tảng vững chắc để văn hóa trở thành một trong những trụ cột chính trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Trong khoảng 20 năm trở lại đây, ngoại giao văn hóa được các quốc gia đặc biệt coi trọng. Văn hóa trở thành “quyền lực mềm” hoặc “sức mạnh mềm” để bảo vệ lợi ích và vị thế quốc gia.
Một quốc gia mà nền văn hóa mờ nhạt, sẽ khó gây được thiện cảm với bạn bè quốc tế. Ngược lại, nếu nền văn hóa đặc sắc, Chính phủ và người dân quan tâm bảo tồn di sản như một lẽ sống, một sự trân trọng thì đất nước đó chính là biểu trưng của sự tiến bộ, văn minh và hòa nhập cùng thế giới đại đồng.
Trước khi các quốc gia xem văn hóa là nền tảng của sức mạnh nội tại, và sau này định hình văn hóa là “sức mạnh mềm”, thì nội hàm của văn hóa đã tồn tại một cách tự nhiên phù hợp với quan điểm, lối sống, phong tục tập quán của từng quốc gia.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) khẳng định rằng: “Văn hóa là một tổng hợp các đặc điểm tinh thần, thể chất, tri thức và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hoặc một nhóm xã hội, bao hàm không chỉ nghệ thuật và văn học mà còn cả lối sống, cách thức cùng chung sống, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng”.
Định nghĩa của UNESCO đã nhấn mạnh vai trò của văn hóa trong việc giúp một xã hội khẳng định sự hiện diện của mình trên thế giới và đảm bảo sự tồn tại của xã hội đó theo thời gian. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác “đa dạng văn hóa” còn ẩn chứa sức mạnh bên trong - về bản chất chính là “sự khác biệt” giữa các nền văn hóa. Sự khác biệt này tạo thành sự hấp dẫn của một nền văn hóa đối với thế giới bên ngoài.
Việt Nam với 54 dân tộc anh em, trải qua bốn nghìn năm lịch sử đã bồi đắp, làm giàu và hình thành một nền văn hóa phong phú đến kỳ lạ. Sự khác biệt trong văn hóa, tập quán của 54 dân tộc lại đồng thời hợp nhất thành một nền văn hóa đậm đặc tinh thần phương Đông, tinh thần lúa nước, chinh phục thiên nhiên, hòa hợp tín ngưỡng.
Trong dòng chảy hàng ngàn năm ấy, văn hóa không mất đi, ngược lại càng thêm phong phú và giàu có. Trong bể dâu chinh chiến, sự tàn phá của vó ngựa, của mũi tên hòn đạn không thể xóa nhòa những cốt cách đã ăn sâu vào tinh thần của người Việt. Tinh thần yêu nước “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, yêu đồng bào “tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, với ứng xử “chị ngã em nâng”, với thiện tâm “lá lành đùm lá rách”… đã hình thành một tinh thần văn hóa cao cả nhất, là đỉnh cao của đạo lý làm người. Tất cả trở thành ngọn nguồn cho nền văn hóa đầy nhân văn và bao dung, đầy cao thượng và chân thành.
Trong thời đại mới khi quốc tế hội nhập giao lưu văn hóa, Việt Nam được biết đến là đất nước yên bình, quốc gia hiếu khách, người dân thân thiện hiền lành. Có được điều tốt đẹp ấy không phải một sớm một chiều, mà đã bồi đắp, truyền thừa sau cả nghìn năm thử thách như “vàng thử lửa”. Thứ vàng thỏi ấy của văn hóa không chỉ là tài sản, là “vốn lập thân” của một đất nước, mà còn phải được định hình như một tài nguyên vô giá trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Trong bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị Văn hóa toàn quốc 2021, được in trong sách “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ điều cần làm khi chấn hưng nền văn hóa Việt Nam: “Quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại. Phát triển sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thời gian tới”.
Chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho thấy, văn hóa không chỉ phải được phát huy, mà còn cần thiết phải bảo tồn, phải gìn giữ, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại.
Ngày nay, việc bảo tồn và gìn giữ văn hóa không những là việc khó, nhiều nan giải, mà còn được xác định là mục tiêu sống còn. Bảo tồn và phát huy không có nghĩa là “cất đi”, là “giấu kỹ”, là không cho ai thấy như cách nghĩ sai lệch của nhiều người, thậm chí ngay cả trong đội ngũ những người hoạt động văn hóa. Kết quả là nhiều cổ vật (kể cả bảo vật quốc gia) trong các bảo tàng không được trưng bày; hàng loạt di sản được công nhận, được vinh danh nhưng người dân rất khó tiếp cận…
Bên cạnh đó, những danh thắng, danh tích liên tục bị xâm hại, bị đục phá, tô màu “khoác áo mới”. Khi bị phát hiện, các cơ quan và những người phải chịu trách nhiệm ít khi dám thừa nhận, dám nhận lỗi mà tận dụng kỹ năng “chuyền bóng trách nhiệm” đổ lỗi cho nhau.
Trong các báo cáo tổng kết về hoạt động “bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa”, người nghe dễ thấy những thành tích rực rỡ, những thành công vang dội, những đóng góp to lớn… mà ít hoặc không thấy những mặt trái, thậm chí những sai trái. Kết quả là không khiến cho nền văn hóa trở nên giàu đẹp hơn, mà ngược lại khiến cho văn hóa “đi chệch” sang một hướng khác tiềm ẩn những lệch lạc, nguy hại.
Cùng với việc tự hào về những điều tốt đẹp, chúng ta cũng phải dũng cảm nhìn nhận những khuyết điểm, hạn chế và cả những mặt trái đã – đang tồn tại, và nếu không bị triệt tiêu sẽ phát triển thành xu hướng xấu trong tương lai, ảnh hưởng tiêu cực đến mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức và toàn xã hội.
Một ví dụ nhỏ nhưng phổ biến mà chúng ta có thể đưa ra phân tích để soi chiếu, chính là văn hóa ứng xử khi va chạm giao thông.
Mới đây, vào đầu tháng 1/2025, hai người đàn ông vì va chạm giao thông mà lao vào đánh nhau tại giao lộ Mỹ Phước - Tân Vạn và đường NE8 (phường Thới Hòa, TP Bến Cát, Bình Dương). Một người quật ngã đối phương xuống đường rồi dùng mũ bảo hiểm tấn công liên tục vào vùng đầu đến khi bất tỉnh. Kết quả, người đàn ông bị dập não, và tử vong sau đó tại bệnh viện.
Việc tấn công người khác ngoài thể hiện bản tính côn đồ, còn cho thấy rất rõ văn hóa ứng xử kém cỏi. Không giải quyết sự việc theo hướng văn minh, nhờ cơ quan chức năng can thiệp mà thay vào đó là dùng nắm đấm, vũ lực để sát hại nhau. Những người chứng kiến cũng không đủ dũng khí để can ngăn, mà làm ngơ vì “không phải việc của mình”.
Còn đâu giá trị nhân văn? Còn đâu “chị ngã em nâng”? Còn đâu nghĩa đồng bào? Trong một xã hội văn minh, không được phép tồn tại sự tàn bạo, cũng không bao giờ để thái độ làm ngơ trước sự tàn bạo được tồn tại. Ở vụ việc đau lòng này, cả kẻ tấn công lẫn những người làm ngơ trước sự tàn bạo đều có lỗi.
Không thể tuyệt đối triệt tiêu những mặt trái, nhưng chúng ta cần nhận thức rõ ràng những hạn chế để văn hóa thực sự là nền tảng trong công cuộc phát triển xã hội, trở thành một trụ cột trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Văn hiến của một đất nước bốn nghìn năm lịch sử khiến chúng ta phải tự hào, nhưng đồng thời cần phải có trách nhiệm phát huy, lan tỏa giá trị, tinh hoa của văn hóa dân tộc ra thế giới, cũng như cần phải định hình được vị trí, vai trò, đóng góp của văn hóa dân tộc trong dòng chảy lịch sử văn hóa nhân loại.
Việt Nam có đến 8 di sản thế giới, 15 di sản văn hóa phi vật thể, 10 di sản tư liệu, 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới, 3 công viên địa chất toàn cầu, 9 khu ramsar được UNESCO công nhận và ghi danh. Cả nước có khoảng 40.000 di tích và gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể đã được kiểm kê, trong đó có 130 di tích quốc gia đặc biệt, 3.633 di tích quốc gia, 571 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, gần 300 hiện vật - nhóm hiện vật là bảo vật quốc gia.
Bên cạnh đó, chúng ta có hệ thống bảo tàng, trung tâm văn hóa trải dài từ Bắc vào Nam; lực lượng nghệ nhân, nghệ sĩ và những người hoạt động thực hành sáng tạo đông đảo, tâm huyết… chính là yếu tố quan trọng, nguồn lực mạnh mẽ để khởi đầu cho những bứt phá trong tương lai gần.
Tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã trình bày Báo cáo của Chính phủ khẳng định các lĩnh vực quản lý Nhà nước về văn hóa đạt được nhiều kết quả cụ thể và rõ nét. Văn hóa không chỉ hiện diện trong mọi lĩnh vực đời sống, mà còn được xác định là nền tảng vững chắc, động lực quan trọng cho sự phát triển bền vững của đất nước, đồng thời giữ vai trò điều tiết và định hướng sự phát triển của xã hội.
Từ sự chuyển biến tích cực và nguồn lực đầu tư cho văn hóa, trong năm 2024 lĩnh vực văn hóa đạt nhiều kết quả đáng mừng. Du lịch đón hơn 17,5 triệu khách quốc tế, tổng thu từ khách du lịch đạt 840 nghìn tỷ đồng, được đánh giá là một điểm sáng trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Các lĩnh vực văn học - nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, điện ảnh, xuất khẩu văn hóa phẩm đạt được nhiều thành tựu. Điều quan trọng nhất, hoạt động quảng bá, lan tỏa, phát huy giá trị di sản văn hóa Việt ra cộng đồng quốc tế được chú trọng, nâng cao hình ảnh quốc gia, thu hút khách quốc tế đến Việt Nam.
Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ngoại giao văn hóa sẽ trở thành chìa khóa vạn năng, là cầu nối để Việt Nam vượt qua những khác biệt, cùng chung tay giải quyết các vấn đề toàn cầu. Bởi vậy, việc phát huy sức mạnh mềm từ nguồn tài nguyên - vốn di sản văn hóa sẽ đóng vai trò quan trọng trong hành trình hội nhập, định vị thương hiệu, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Bộ trưởng Bộ VH,TT&DL Nguyễn Văn Hùng nhiều lần nhấn mạnh, chưa bao giờ văn hóa nhận được sự quan tâm sâu sắc như hiện nay. Từ Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đến Hội nghị về thể chế, chính sách và nguồn lực phát triển văn hóa tại Bắc Ninh, cho đến Hội thảo Văn hóa năm 2024 tại Quảng Ninh, với mục tiêu tháo gỡ những điểm nghẽn về chính sách và nguồn lực cho các thiết chế văn hóa. Đặc biệt lần đầu tiên, Thủ tướng đã chủ trì Hội nghị phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Tất cả đều khẳng định sự quan trọng và sự chú trọng toàn diện đối với văn hóa.