Thứ hai: Một số mục tiêu đề ra trong Nghị quyết chưa đạt được. Chưa có nhiều cơ sở khoa học, giáo dục, văn hóa, kinh tế mạnh có uy tín ở khu vực và quốc tế. Một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm có tiềm năng, lợi thế còn thiếu đội ngũ tri thức trình độ cao, tri thức đầu ngành để đào tạo đội ngũ kế cận và phát huy năng lực cống hiến của trí thức; chưa thực sự thu hút được đông đảo tri thức tham gia hoạt động và cống hiến.
Thứ ba: Chất lượng của đội ngũ trí thức chưa thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thiếu trí thức đầu ngành, tổng công trình sư, trí thức có khả năng chủ trì thực hiện các chương trình, dự án nghiên cứu lớn. Tỷ lệ trí thức nữ có trình độ cao chưa nhiều. Cơ cấu của đội ngũ trí thức còn bất hợp lý, phân bố không đồng đều giữa các vùng miền, các lĩnh vực, thiếu trí thức cho các vùng khó khăn, cho khu vực doanh nghiệp.
Thứ tư: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa được hoàn thiện đồng bộ, chậm bổ sung cơ chế, chính sách mới, chưa có chiến lược phát triển đội ngũ trí thức. Thiếu cơ chế, chính sách đột phá trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức. Việc thu hút, trọng dụng trí thức còn nhiều điểm bất cập, chưa sát với thực tiễn cuộc sống. Hoạt động giám sát thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Có 4 nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nêu trên. Thứ nhất là nhận thức, cách hiểu về khái niệm “tri thức” còn có sự khác biệt. Do đó, trong quá trình triển khai thể chế hóa và thực hiện Nghị quyết rất khó phân định giữa trí thức nói chung với “nhân lực khoa học và công nghệ”, “nhân lực chất lượng cao”, “trí thức tinh hoa”, “trí thức nòng cốt", “người có tài năng”, dẫn đến sự lúng túng, cào bằng trong xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh.
Thứ hai: Công tác tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức và tổ chức thực hiện đồng bộ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết thực hiện chưa hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, trước hết là người đứng đầu chưa thực sự quan tâm đến việc thúc đẩy xây dựng, trọng dụng đội ngũ trí thức trong địa bàn, lĩnh vực được giao.
Thứ ba: Xây dựng Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức là vấn đề khó, phức tạp, có nội hàm rất rộng, liên quan đến nhiều văn bản pháp luật ở nhiều lĩnh vực luật; liên quan đến con người, trách nhiệm, nội dung quản lý của nhiều ngành, nhiều cấp, tác động đến trí thức, đội ngũ nhà khoa học, nhân tài đang làm việc trong các ngành nghề, vùng miền khác nhau.
Thứ tư: Một bộ phận trí thức là cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu, năng lực, phẩm chất, uy tín hạn chế, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật Nhà nước, phần nào ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.
Tại Hội nghị, ông Đặng Xuân Môn đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận, làm rõ 3 nội dung.
Thứ nhất: Bổ sung đánh giá, phân tích sâu sắc hơn về tình hình, kết quả nổi bật, ấn tượng trong 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW; chỉ ra một số hạn chế, điểm nghẽn, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm chính, sâu sắc nhất, trọng tâm nhất. Đồng thời, chia sẻ mô hình cách làm hay, hiệu quả trong thu hút, tập hợp, phát huy vai trò đội ngũ trí thức.
Thứ hai: Phân tích bối cảnh thời cơ thuận lợi, cũng như khó khăn thách thức tác động trực tiếp đến đội ngũ trí thức trong thời gian tới. Cho ý kiến về những quan điểm, mục tiêu chính nhằm xây dựng đội ngũ trí thức và phát huy tối đa vai trò đội ngũ trí thức góp phần phát triển đất nước bền vững và tăng cường hội nhập quốc tế.
Thứ ba: Đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp có trọng tâm, trọng điểm, đột phá, thiết thực, khả thi để giải quyết các vấn đề cốt lõi về công tác trí thức; đặc biệt là các nhiệm vụ, giải pháp gắn liền với trách nhiệm triển khai thực hiện của các cơ quan, đơn vị, của đội ngũ trí thức trong các ngành, lĩnh vực.
Những ý kiến đóng góp sẽ được Ban Chỉ đạo Đề án, Ban Tuyên giáo Trung ương tiếp thu nhằm hoàn thiện các sản phẩm Đề án, bảo đảm chất lượng, tiến độ, trình Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.