Ngày 12/8/2024, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 91-KL/TW tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện
Ngày 12/8/2024, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 91-KL/TW tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GD-ĐT). Đánh giá cao mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong Kết luận 91, các chuyên gia, nhà giáo cho rằng, để thực hiện cần quán triệt sâu sắc, quyết tâm đầu tư cho GD-ĐT đúng nghĩa “quốc sách hàng đầu”.
Sau hơn 10 năm triển khai Nghị quyết 29, GD-ĐT nước ta nói chung có nhiều khởi sắc, chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, yêu cầu của xã hội thay đổi quá nhanh, trong khi “sức ì” còn lớn. Do vậy, dù đã qua hơn 10 năm, nhưng các nội dung của Nghị quyết 29 vẫn còn nguyên giá trị. Việc Bộ Chính trị ban hành Kết luận 91 lần này có ý nghĩa sâu sắc, vừa đánh giá tình hình, vừa nhấn mạnh một số nhiệm vụ trọng tâm.
Đáng lưu ý, Kết luận 91 khẳng định “tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm túc hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp đã nêu trong Nghị quyết 29” và kiên trì thực hiện 8 nhiệm vụ trọng tâm.
8 nhiệm vụ trong Kết luận 91 được trình bày súc tích, có tính chất nhấn mạnh những việc ưu tiên thực hiện trong thời gian tới. Đây là những nhiệm vụ căn bản, vấn đề là tổ chức thực hiện thế nào để hoàn thành mục tiêu, nhất là mục tiêu đến năm 2030 “đưa GD-ĐT Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của khu vực châu Á”.
Thực ra, mục tiêu này được đề ra từ Nghị quyết 29. Tuy nhiên, với bối cảnh hiện nay, nếu nói về tính khả thi của mục tiêu, có lẽ phải bắt đầu từ cách tiếp cận. Nếu chúng ta vẫn tiếp cận theo cách đầu tư, quản lý như những gì đã làm thì khó có thể mong đợi kết quả vượt trội.
Nhưng nếu tiếp cận theo hướng đổi mới sáng tạo trên tinh thần “thích ứng với cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo”; “bảo đảm đủ điều kiện về cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính cho phát triển GD-ĐT”; cũng như “các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu các địa phương, đơn vị” nhận thức “trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và thực hiện đầy đủ, sâu sắc quan điểm coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu, sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân” như Kết luận 91 đề cập thì chắc chắn mục tiêu trên có thể thành hiện thực.
8 nhiệm vụ đề ra đã rõ. Nhiệm vụ đầu tiên, đôi khi nhiều người nghĩ là chung chung, thời nào đề cập cũng trúng; nhưng nếu không thực hiện nhiệm vụ này thì những việc phía sau cũng khó thành. Vấn đề giờ đây, các cấp cần quán triệt sâu sắc và quyết tâm đầu tư cho GD-ĐT đúng nghĩa “quốc sách hàng đầu” thì chắc chắn Việt Nam sẽ vươn lên, phát triển bền vững.
Thành quả của ngành GD-ĐT không thể đo đếm theo năm hay nhiệm kỳ mà phải qua hàng chục năm với việc kiên trì thực hiện và kiên định mục tiêu, chứ không phải “phép thử” theo từng năm, từng mùa. Do vậy, nếu nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu… còn coi nhẹ vai trò, vị trí của GD-ĐT, trong khi đặt nặng thành tích hay những lợi ích trước mắt thì thực sự khó hy vọng mọi điều tốt đẹp sẽ đến!
Để hiện thực hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ theo tinh thần “đổi mới căn bản và toàn diện” chắc chắn có nhiều việc cần phải làm và điều quan trọng là phải tiếp cận từ gốc.
Trước hết, với giáo dục phổ thông, chương trình cơ bản đã xây xong, giờ là lúc cần tập trung thực hiện cho “căn bản và toàn diện”. Để làm được điều này, chất lượng đội ngũ giáo viên là quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, để có được đội ngũ giáo viên chất lượng thì trước hết phải tập trung đầu tư vào “máy cái” - tức là các trường sư phạm. Đây là cơ sở giáo dục ĐH thực hiện 2 nhiệm vụ quan trọng, một là đào tạo mới đội ngũ giáo viên, hai là bồi dưỡng đội ngũ giáo viên hiện có.
Trường sư phạm cần phải có đội ngũ giảng viên chất lượng và cơ sở vật chất hiện đại để chịu trách nhiệm thực hiện 2 nhiệm vụ trên. Với nguồn ngân sách và giao nhiệm vụ như hiện nay khó có thể đầu tư cho phát triển con người và hạ tầng kỹ thuật để thực hiện tốt cả 2 nhiệm vụ cùng một lúc.
Với thực tế cạnh tranh nguồn lực của xã hội, ngân sách Trung ương cần ưu tiên cho chính sách đào tạo và trọng dụng giảng viên sư phạm, cũng như đặt hàng nghiên cứu khoa học giáo dục để nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên gắn chặt với công cuộc đổi mới giáo dục ở phổ thông.
Đồng thời cần ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, cơ sở thực hành sư phạm, hệ thống thư viện kết nối với các trường phổ thông… Bên cạnh đó, ngân sách địa phương cần ưu tiên tập trung đầu tư cho đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, phát triển cơ sở vật chất hệ thống các trường mầm non, phổ thông các cấp.
Thứ hai, với giáo dục nghề nghiệp và ĐH phải xác định lại đúng vị trí, vai trò và cần gắn kết, liên thông dựa trên khung năng lực trình độ quốc gia. Triển khai quy hoạch mạng lưới và đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để tập trung phát triển các ngành đào tạo “có tính chiến lược” cũng như những ngành khoa học cơ bản nền tảng. Đồng thời, cần xây dựng chính sách nhân tài quốc gia, để khuyến khích phát triển đào tạo sau ĐH có chất lượng, nhất là các ngành đòi hỏi trình độ cao và đào tạo chuyên sâu.
Thứ ba, nhà giáo là lực lượng trí thức đông đảo có tính chất lao động đặc thù cần hành lang pháp lý để bảo vệ, quản lý, cũng như có chính sách riêng nhằm khuyến khích, động viên nhà giáo tâm huyết cống hiến; đồng thời phải kiên quyết kiểm soát chặt chẽ các hành vi lợi dụng làm sai lệch môi trường, mục tiêu giáo dục.
Chính sách lương nhà giáo “ưu tiên xếp cao nhất” cần phải thực hiện ngay, để tiếp tục khẳng định quan điểm chỉ đạo thứ nhất trong Nghị quyết số 29-NQ/TW, đó là “GD-ĐT là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Kết luận số 91-KL/TW đặt mục tiêu đưa GD-ĐT Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của khu vực châu Á vào năm 2030 và đạt trình độ tiên tiến của thế giới năm 2045.
Mục tiêu này khả thi nếu chúng ta kiên định, quyết tâm tiếp tục phát huy những thành tựu đã có về đổi mới giáo dục nước nhà hơn 10 năm qua và trước đó; đồng thời tiếp tục đầu tư có trọng điểm, phát triển vượt trội trong thời gian còn lại. Ngoài ra, khắc phục những bất cập, hạn chế là điều cần làm với các giải pháp, biện pháp thật cụ thể.
Những nền tảng chúng ta đã có về chất lượng giáo dục; thành tựu về đảm bảo chất lượng giáo dục ĐH thông qua kiểm định giáo dục quốc tế; các mô hình trường học tiên tiến được triển khai, cùng đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong GD-ĐT, nếu được bảo đảm sẽ là cơ sở để xác lập tính khả thi của mục tiêu.
Đương nhiên, chúng ta phát triển thì các nước trong khu vực sẽ phát triển. Nhưng cần nhất quán về quan điểm, có niềm tin, kế hoạch cụ thể, từng chặng với sự đầu tư, quyết tâm cao, cách làm hiệu quả, việc đạt trình độ tiên tiến của khu vực châu Á sẽ rất triển vọng. Điều cần nhấn mạnh là, đạt trình độ tiên tiến của khu vực hiểu theo nghĩa tổng quát các tiêu chí trọng tâm của trình độ tiên tiến về GD-ĐT chúng ta đã đạt được, tiệm cận đến, không cần ở hàng tốp hay vượt trội.
Điều cần chú ý là việc xác định trọng điểm để phát triển có điểm đến và lan tỏa, bởi thời gian 6 năm với GD-ĐT có thể nói là khá ngắn. Để giáo dục Việt Nam đạt mục tiêu này, cần sớm thông qua chiến lược phát triển giáo dục; bảo đảm thực hiện các giải pháp trong Kết luận số 91-KL/TW một cách quyết tâm và có kết quả. Đồng thời, thực hiện một cách hệ thống các tiêu điểm trong Kết luận số 91-KL/TW bằng chương trình khoa học giáo dục và hành động ưu tiên…
Nếu GD-ĐT Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của khu vực châu Á vào 2030, thì việc đạt trình độ tiên tiến của thế giới vào năm 2045 với các giải pháp đột phá và duy trì thực hiện tốt các nhiệm vụ đã nêu trong Kết luận là đầy triển vọng.
Trong đó có việc thực hiện hiệu quả đầu tư hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp, giáo dục ĐH và nâng cao tiềm lực nghiên cứu khoa học trong các cơ sở GD-ĐT; đầu tư nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục ĐH công lập… mang tầm cỡ khu vực, quốc tế; đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số trong GD-ĐT; đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách phát hiện tuyển dụng, sử dụng nhân tài trong giáo dục; tập trung nâng cao năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học…
Sau hơn 10 năm triển khai Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT (Nghị quyết 29), ngành Giáo dục đạt được nhiều kết quả quan trọng. Điểm nhấn là toàn ngành hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi.
Các loại hình giáo dục, từ công lập đến ngoài công lập, giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học phát triển đa dạng, góp phần tạo ra công bằng trong tiếp cận giáo dục với người dân...
Đặc biệt, ngành Giáo dục đã và đang nỗ lực thực hiện Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông 2018, tạo được những kết quả và dấu ấn riêng. Bên cạnh việc đa dạng hóa loại hình trường lớp, hoàn thiện các loại hình giáo dục, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, cơ bản đảm bảo số lượng và ngày càng nâng cao về chất lượng.
Đổi mới giáo dục không phải việc làm trong “ngày một, ngày hai”, nhất là những vấn đề căn bản, gốc rễ và toàn diện như Nghị quyết 29 đã đề cập. Kế thừa và phát huy những thành quả của Nghị quyết này, ngày 12/8/2024, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Kết luận số 91-KL/TW của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Kết luận ra đời nhằm tiếp tục triển khai tốt nhất việc đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT.
Đặc biệt, chúng ta phải phát huy những thành tựu đã đạt được và khắc phục hạn chế, bất cập còn tồn tại. Mục đích là làm thế nào để sản phẩm của giáo dục đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài của đất nước, khu vực và thế giới.
Trong bối cảnh hiện nay, để thực hiện Kết luận 91, tôi cho rằng, việc đầu tiên là Chính phủ, Bộ GD&ĐT phải rà soát lại thể chế, vì có thể có những chỉ đạo của Đảng về GD-ĐT chúng ta chưa kịp thể chế hóa. Những năm qua, tôi ghi nhận, đánh giá cao công tác thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển và đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT.
Đơn cử, Chính phủ đã trình Quốc hội cho ý kiến, ban hành nhiều luật liên quan đến giáo dục như: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học... Tới đây, Chính phủ sẽ trình dự án Luật Nhà giáo tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV.
Năm 2023, ngành Giáo dục đã tổng kết khá quy mô, đầy đủ về kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết 29. Từ đây, đề ra phương hướng các giai đoạn phát triển tiếp theo của đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT. Giáo dục không chỉ liên quan đến Bộ GD&ĐT hay các cơ sở đào tạo. Đây là lĩnh vực có tính chất bao trùm và thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Bởi, tất cả lĩnh vực khác đều liên quan đến giáo dục.
GD-ĐT cung cấp nguồn nhân lực cho các lĩnh vực khác. Do đó, sự phát triển của ngành Giáo dục ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển của một quốc gia, dân tộc. Cho nên, các cấp, ngành phải quan tâm đến sự nghiệp GD-ĐT. Từ đó có những đề xuất vì sự phát triển chung, đáp ứng kỳ vọng của Bộ Chính trị về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục như Kết luận 91 đã đề ra.
Thực tế cho thấy, dù đã đổi mới nhưng nhìn chung đào tạo đại học và đào tạo nghề vẫn theo một lối mòn. Đâu đó vẫn đào tạo những gì mà chúng ta quen thuộc, sẵn có nên chưa thực sự quan tâm đến đào tạo những gì mà thị trường và cuộc sống cần. Tôi cho rằng, cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ, ngành Trung ương với Bộ GD&ĐT, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và các doanh nghiệp, tập đoàn lớn. Làm sao để đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng, đáp ứng được nhu cầu thị trường và xã hội.
Trong Kết luận 91 nêu rõ về tổ chức thực hiện, gồm: Tỉnh ủy, thành ủy, các ban cán sự Đảng, Đảng đoàn... Đảng ủy trực thuộc Trung ương phải nghiên cứu quán triệt và xây dựng kế hoạch phù hợp với đặc thù địa phương, cơ quan, đơn vị. Bởi không thể có công thức hay kế hoạch chung cho tất cả cơ quan, đơn vị và các địa phương khi triển khai Kết luận 91.
Ngoài ra, cần có sự giám sát, thanh tra việc tổ chức thực hiện Kết luận 91. Trong đó có vai trò của các đoàn đại biểu Quốc hội và Quốc hội. Thời gian tới, Quốc hội nên đưa vấn đề này vào kế hoạch thực hiện. Trước đó, Quốc hội đã giám sát tối cao về việc thực hiện Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới. Vì thế, với chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, trong quá trình triển khai Quốc hội sẽ giám sát và giám sát tối cao.
Thậm chí, ở các địa phương, đoàn đại biểu Quốc hội cũng sẽ giám sát. Tuy nhiên, phải đợi đến triển khai Kết luận 91 vào thực tiễn mới có cơ sở để thực hiện giám sát. Tôi rất mong Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội quan tâm đến lĩnh vực này để Kết luận 91 của Bộ Chính trị phát huy hiệu lực, hiệu quả trong GD-ĐT.
Ngày 12/8/2024, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Kết luận số 91-KL/TW của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Ở tầm vĩ mô, tôi cho rằng, Thủ tướng Chính phủ cần xây dựng và ban hành Chỉ thị thực hiện Kết luận số 91. Cùng đó, Bộ GD&ĐT sớm xây dựng chiến lược, chương trình hành động thực hiện Kết luận này, sớm trình Chính phủ ban hành trong quý III/2024. Trong đó nêu rõ mục tiêu nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn, bảo đảm hiệu quả, thiết thực.
Cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm đủ điều kiện cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính cho phát triển GD-ĐT. Đặc biệt, sớm hiện thực hóa việc bảo đảm ngân sách Nhà nước chi cho GD-ĐT tối thiểu 20% tổng chi ngân sách Nhà nước như Nghị quyết số 29-NQ/TW đã đề ra. Trước mắt, cần có cơ chế, giải pháp kịp thời điều chỉnh tăng mức chi ngân sách Nhà nước cho GD-ĐT phù hợp với tăng trưởng của nền kinh tế trong bối cảnh hiện nay.
Cùng với những nội dung trên, một trong những chủ trương mà tôi đặc biệt quan tâm là, Bộ Chính trị yêu cầu phát triển, nâng cao chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp; bảo đảm đủ số lượng giáo viên theo định mức quy định. Đồng thời, nghiên cứu cơ chế, chính sách điều động, luân chuyển giáo viên giữa các địa phương để giải quyết căn bản tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ và nâng cao chất lượng giáo dục cho các vùng khó khăn.
Muốn vậy, cần đổi mới quản lý Nhà nước đối với nhà giáo một cách đồng bộ, gắn với quản lý chuyên môn và chất lượng. Trong đó, cần nhấn mạnh đến cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển dụng, sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ và trọng dụng nhân tài làm việc trong ngành Giáo dục. Đặc biệt, cần thực hiện chủ trương lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng.
Thiết nghĩ, Bộ GD&ĐT cần tham mưu với Chính phủ đề xuất các giải pháp mang tầm chiến lược, có lộ trình rõ ràng; trong đó cần xây dựng báo cáo đánh giá tác động một cách khoa học, bài bản, đủ sức thuyết phục được các cấp, ngành, cơ quan Trung ương. Nhiệm vụ trước mắt là tập trung trí tuệ xây dựng dự thảo Luật Nhà giáo để Chính phủ trình Quốc hội. Khi Luật Nhà giáo được thông qua, chúng ta sẽ có cơ sở pháp lý để hiện thực hóa nhiều chủ trương về GD-ĐT và các vấn đề liên quan đến đội ngũ nhà giáo; trong đó có chính sách tiền lương, tuyển dụng và sử dụng giáo viên như đã đề cập ở trên.
Theo PGS.TS Nguyễn Đức Sơn - Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Kết luận 91 của Bộ Chính trị một lần nữa khẳng định, chúng ta đang đi đúng hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Kết luận thể hiện tư tưởng và sự kiên định, thống nhất về đường lối đổi mới trong sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Giáo dục là vun trồng con người. Tôi cho rằng, Kết luận 91 không chỉ là định hướng, chỉ đạo công việc, mà là những hoạt động giáo dục trong thời gian tới, tạo động lực lớn đối với ngành Giáo dục.