Giờ thi và hình phạt khắc nghiệt
Trống điểm canh tư (chừng 1 giờ sáng) thí sinh phải có mặt ở trường thi để nghe gọi tên. Đến khoảng canh năm tám khắc (khoảng 5 giờ sáng) thì thí sinh phải vào hết trong trường. Thí sinh làm bài cho đến giờ Thân (3 - 5 giờ chiều) thì bắt đầu nộp bài, hạn cuối là hết canh một (tức 19 giờ).
Vì vậy, thí sinh vào trường phải chuẩn bị đầy đủ lều, chõng, chiếu, tráp đựng nghiên, bút, giấy, mực, dao kéo... và thức ăn dùng trong một ngày.
Quan trọng nhất là chuẩn bị quyển thi (giấy làm bài thi đóng thành quyển), phải giữ gìn sạch sẽ. Quyển thi là do thí sinh đem nộp trước cho dinh đốc học để kiểm tra, đóng dấu.
Khi quan trường gọi đúng tên, thí sinh phải “dạ” thật to rồi vào cổng trường thi để nhận lại quyển thi. Vào trường thi, thí sinh tìm chỗ cắm lều, đặt chõng, đến khi sáng rõ thì xong để chuẩn bị làm bài thi.
Không được mang tài liệu vào trường thi; không nói chuyện ồn ào, đi lại lộn xộn; không được quên đóng dấu “nhật trung” (dấu giáp lai các trang bài thi, dấu xác định bài thi được làm tại trường thi...). Cấm ngồi không đúng chỗ, tự ý vứt bỏ hoặc sửa chữa bảng tên; cấm kê khai gian lận tên tuổi; cấm nộp bài trễ hạn.
Các quy định đó xem ra cũng không khác gì hiện nay, nhưng hình phạt cho người vi phạm thì vô cùng khắc nghiệt. Trong bài thi lại có những quy định rất rắc rối, chủ yếu là những lỗi về hình thức mà thí sinh phải tránh. Đầu tiên là lỗi khiếm tị (không biết tránh chữ húy).
Bài thi của thí sinh phải tránh viết những chữ húy kỵ của triều đình. Đó là tên của tất cả các đời vua, hoàng hậu, kể cả ông bà tổ tiên vua; rồi thì tên lăng, miếu, cung, điện, làng quê của vua...
Sau lỗi khiếm tị là lỗi khiếm trang và khiếm đài. Khiếm trang có nghĩa là thiếu phần tao nhã, do dùng những từ thô tục về nghĩa cũng như về âm, thiếu tôn kính với các từ tôn nghiêm.
Đang hành văn mà gặp những từ tôn kính như thiên, địa, đế, hậu... thì phải tự động sang hàng và đài (nâng cao lên trong dòng chữ). Nếu không là mắc lỗi khiếm đài.
Chưa hết, bài thi phải viết loại chữ chân phương, thiếu một nét hay một chấm xem như mắc lỗi. Quyển thi nếu bị ố bẩn, tì vết, xem như làm dấu cũng bị đánh trượt. Lệ còn quy định mỗi quyển thi không được đồ (xóa bỏ), di (sót), câu (móc), cải (sửa) quá 10 chữ.
Khi làm xong bài, cuối quyển thi phải ghi rõ số chữ đã đồ, di, câu, cải. Nếu đồ, di, câu, cải vượt quá 10 chữ, hoặc sai sót, ố bẩn, tì vết không thể khắc phục thì đem lên quan trường xin đổi quyển thi khác hợp lệ. Phạm vào lỗi gì đều được niêm yết rõ lên bảng con ở mỗi khu vực cho thí sinh biết vì sao mà hỏng thi.
Những thí sinh chỉ đỗ được ba trường thi Hương thì được học vị tú tài. Những thí sinh vượt qua được cả bốn trường thì được học vị cử nhân, được ban cấp áo mũ, ban yến (đãi tiệc), rồi vinh quy bái tổ.
Tân tiến sĩ sẽ được ban nhiều đặc ân, được vinh quy bái tổ, khắc bia lưu danh và bổ nhiệm chức quan. |
Cuộc đua tiến sĩ
Đỗ trong kỳ thi Đình đạt học vị chung là tiến sĩ. Trong đó, đỗ từ 8 - 10 điểm được xếp bậc Đệ nhất giáp: 10 điểm đỗ “Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên). 9 điểm đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh (Bảng nhãn). 8 điểm đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa).
Tân cử nhân về quê tiếp tục đèn sách đợi vào kinh đô dự kỳ thi Hội. Cách thức làm bài và trường quy thi Hội không khác mấy với thi Hương, nhưng phạm quy thì bị tội nặng hơn.
Thi Hội và thi Đình được mệnh danh là kỳ thi Đại Tỷ (Đại khoa). Thi Hội là kỳ thi quốc gia dành cho những người đã qua thi Hương, có bằng cử nhân và các Giám sinh đã mãn khóa Quốc Tử Giám.
Theo quy định từ năm 1434, thi Hội cũng có 4 kỳ. Kỳ một thi kinh nghĩa, thư nghĩa; kỳ hai thi chiếu, chế, biểu; kỳ ba thi thơ phú và kỳ bốn thi văn sách. Thi Hội không có truyền lô (xướng danh) nhưng lễ yết bảng (công bố kết quả) rất long trọng. Bảng chính ghi tên những người đạt hạng trúng cách, bảng thứ ghi tên người hạng thứ trúng cách. Chỉ những người trúng cách mới được tiếp tục tham gia thi Đình.
Thi Đình còn gọi là Điện thí, được tổ chức ngay tại sân điện, do vua ra đề và chấm thi. Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp, có rọc phách. Vua chấm thi vẫn không biết bài đó ai. Thi Đình thực chất là cuộc phúc tra cuối cùng nhằm thẩm định và xếp hạng các tân tiến sĩ.
Đây cũng là kỳ thi cuối cùng để xếp loại tiến sĩ đã đỗ ở kỳ thi Hội trước đó. Sau khi vua chấm bài, học vị của các sĩ tử được quyết định và bảng vàng ghi danh là vinh hiển tột cùng, được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu để lưu danh muôn thuở.