Quy trình để sản xuất viên nang được nhóm nghiên cứu gồm thu hoạch, phơi khô, cắt nhỏ và chiết xuất hoạt chất bằng cồn. Sau khi thu được dịch chiết sẽ cô đặc trên bếp cách thủy và tạo cao lỏng. Cao lỏng sẽ được khảo sát để đảm bảo các tiêu chuẩn cơ sở.
Sau khi có cao lỏng, nhóm thực hiện khảo sát độ tan của hoạt chất nuciferine trong các tá dược và xây dựng giản đồ 3 pha để chọn ra vùng tạo vi nhũ tương.
Sau khi chọn được các tá dược phù hợp và tạo giá mang, hoạt chất sẽ được đưa vào giá mang và xây dựng công thức bào chế vỏ viên nang mềm, đưa hệ giá mang có hoạt chất vào trong vỏ viên nang mềm. Nhóm đã thử nghiệm trên mô hình in vitro với enzym lipase tuỵ lợn và đo hoạt tính chống oxy hóa.
Sử dụng lâu dài cho người bệnh
Nhóm đã sử dụng công nghệ bào chế viên nang mềm chứa hệ nano tự nhũ hóa Self-nanoemulsifying drug delivery systems (SNEDDS) dành cho nuciferin, hoạt chất chính đem lại nhiều giá trị trong điều trị. Sản phẩm điều chế được kiểm soát chặt chẽ với các khâu kỹ thuật tuân theo tiêu chuẩn sản xuất dành cho thuốc, không phải tiêu chuẩn kiểm nghiệm thực phẩm như các sản phẩm trên thị trường.
TS Trần Lê Tuyết Châu, giảng viên hướng dẫn nhóm, cho biết, sáng tạo của nhóm nghiên cứu là chế tạo ra dạng viên nang mềm, nhỏ gọn, giúp việc sử dụng sản phẩm trở nên thuận tiện mà vẫn đảm bảo hiệu quả điều trị.
Hơn nữa, do có nguồn gốc hoàn toàn từ thiên nhiên nên việc sử dụng lâu dài sẽ không gây nên nhiều các tác dụng không mong muốn nhiều như các thuốc hóa dược khác. Tác dụng phụ của các loại thuốc hóa dược, nếu sử dụng lâu dài thường dẫn đến những hậu quả khó lường đối với tình trạng sức khỏe.
Ngoài ra, các nguồn nguyên liệu tự nhiên, tá dược đều có thể tìm thấy sẵn có với giá cả hợp lý trên thị trường Việt Nam, có thể vận hành nhanh chóng với quy mô công nghiệp. Ngoài ra, việc sử dụng hoạt chất chính sẽ giúp kiểm soát hiệu quả điều trị tốt hơn cũng như tiết kiệm được số lượng lớn nguồn nguyên liệu đầu vào.
Lá sen được dùng trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian với tên thuốc là liên diệp hoặc hà diệp, được thu hái quanh năm, thường dùng lá non (hoặc lá còn cuộn lại chưa mở) và lá bánh tẻ, bỏ cuống. Dùng tươi hoặc phơi, sấy khô, đôi khi sao thơm. Dược liệu là nguyên lá to, khô, màu lục, không bị sâu, không có vết thủng, có vị đắng, hơi chát, mùi thơm nhẹ, tính mát bình, không độc.