Phạm Ngọc Hà - sinh viên Trường Đại học Đà Lạt đã nghiên cứu tạo ra bột dinh dưỡng từ bèo tấm - loài thực vật có sẵn trong tự nhiên với giá trị dinh dưỡng cao...

Với mong muốn nâng cao dinh dưỡng trong thức ăn vật nuôi và tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên, dồi dào nguồn cung, Phạm Ngọc Hà - sinh viên Khoa Sinh học, Trường Đại học Đà Lạt (Lâm Đồng), đã thực hiện đề tài nghiên cứu về các loài bèo đáp ứng những yêu cầu trên. Qua tìm hiểu tài liệu và thu thập mẫu thực tế, Ngọc Hà đánh giá bèo tấm có thể làm thức ăn giàu dinh dưỡng cho vật nuôi.
Theo các tài liệu khoa học, bèo tấm là loài thực vật thủy sinh rất nhỏ, thuộc chi Lemna (họ Araceae), còn gọi là bèo cám hay bèo mịn. Cây có kích thước chỉ vài milimet, hình dẹt, nổi trên mặt nước, sinh trưởng mạnh ở ao hồ, kênh mương có nước tĩnh, đặc biệt trong điều kiện khí hậu nóng ẩm ở Việt Nam. Bèo phân bố ở Tây Nam Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên… Bèo tấm sinh sản vô tính rất nhanh, có thể nhân đôi chỉ sau vài ngày. Nhờ giàu dinh dưỡng, từ lâu bèo tấm đã được người dân sử dụng làm thức ăn chăn nuôi.
Dựa trên những đặc điểm sinh học của bèo tấm, Ngọc Hà kết hợp 3 loài bèo bản địa gồm W. globosa, S. polyrhiza và L. aequinoctialis để làm thức ăn vật nuôi, với hàm lượng dinh dưỡng cao hơn và an toàn hơn bèo trong tự nhiên. Theo Hà, đây là ba loài bèo có cấu trúc dinh dưỡng cân đối, giàu protein tự nhiên (25 - 48%), vitamin và khoáng chất, giúp bổ sung dưỡng chất toàn diện cho vật nuôi.
Theo Ngọc Hà, điểm đặc biệt của bèo tấm là chứa nhiều vitamin nhóm B, đặc biệt là vitamin B12 mà nhiều loài thực vật khác không có. Ngoài ra, bèo có tỷ lệ hấp thu cao, trên 90%, nhờ cấu trúc tế bào mỏng, ít cellulose khó tiêu. “Những đặc điểm này rất phù hợp để làm thức ăn vật nuôi, giá trị dinh dưỡng cao”, Ngọc Hà nói.
Tính khả thi của dự án còn thể hiện ở việc bèo tấm là nguyên liệu bản địa, có sẵn trong tự nhiên, dễ nuôi trồng, không tạo phế phụ phẩm sau thu hoạch. Sản phẩm không sử dụng hóa chất, chất bảo quản, dễ phối trộn trong thức ăn. Mục tiêu của Ngọc Hà là tạo ra loại thức ăn xanh, một giải pháp đổi mới trong nông nghiệp bền vững.

Điểm khác biệt của dự án mà Ngọc Hà đang thực hiện là bèo tấm trong tự nhiên thường chưa được tối ưu về dinh dưỡng. Do đó, nữ sinh đã nghiên cứu sử dụng các công nghệ nuôi cấy và chăm sóc nhằm tối ưu các chất dinh dưỡng có trong bèo, từ đó tăng giá trị dinh dưỡng cho thức ăn.
Theo đánh giá của Ngọc Hà, bèo tấm trong tự nhiên thường sống cùng một số loài tảo. Trong một số điều kiện, tảo có thể phát triển lấn át so với bèo. Để hạn chế tình trạng này, Hà sử dụng kỹ thuật nuôi cấy, đưa bèo từ tự nhiên vào phòng thí nghiệm, tạo môi trường lý tưởng để bèo phát triển; đồng thời áp dụng kỹ thuật nuôi cấy mô, khử trùng, loại bỏ tảo, sau đó tăng sinh khối cho bèo.
Bèo tấm có đặc điểm ưa ánh sáng mặt trời, nhiệt độ dưới 35 độ C và được cung cấp oxy bằng hệ thống sục khí. Sau khi nuôi cấy thành công, bèo được đưa ra trồng trong môi trường thủy canh trong nhà kính. “Việc nuôi bèo nhằm tăng hàm lượng protein và các dưỡng chất cao hơn so với trong tự nhiên. Đồng thời, việc nuôi trồng có kiểm soát giúp hạn chế tồn dư kim loại nặng trong bèo”, Ngọc Hà chia sẻ.
Bèo tấm là thực vật có tốc độ tăng sinh khối rất nhanh, chỉ sau 28 - 48 giờ có thể tăng gấp đôi. Khi sinh khối đạt mức giới hạn, bèo được thu hoạch tươi, sau đó sấy khô và nghiền thành bột. Do đặc điểm hàm lượng cellulose thấp, thành tế bào mỏng nên thời gian sấy nhanh, nhiệt độ sấy không quá cao, khoảng 60 - 70 độ C là có thể hoàn thành. Bèo tấm khô được nghiền thành bột, phối trộn với một số nguyên liệu khác để tạo thành thức ăn vật nuôi.
Hiện nay, Ngọc Hà sử dụng tỷ lệ 25% bèo, 50% cám và 25% bắp để tạo viên thức ăn. Trong cám đã có chất kết dính nên chỉ cần bổ sung nước là có thể vo thành viên. Hàm lượng bèo đang thử nghiệm là 25% và có thể tăng lên 30 - 35% để tăng dưỡng chất, tùy theo nhu cầu người sử dụng và giống vật nuôi. Viên thức ăn từ bèo tấm có thể dùng cho cá, gà, tôm…
Ngọc Hà chia sẻ, công đoạn khó nhất trong quy trình nuôi cấy tạo sản phẩm thức ăn vật nuôi là tìm môi trường tối ưu dinh dưỡng cho bèo tấm. Nữ sinh đã thử nghiệm nhiều lần, trong các điều kiện môi trường khác nhau, dựa trên đặc điểm sinh học của bèo để lựa chọn môi trường phù hợp nhất, giúp tối ưu hàm lượng dinh dưỡng.
Nếu môi trường không phù hợp, tảo sẽ phát triển lấn át, làm giảm sự sinh trưởng và giá trị dinh dưỡng của bèo. Nhờ được sinh trưởng trong môi trường nuôi cấy, không có sự phát triển của vi sinh vật có hại, bèo tấm rất an toàn khi vật nuôi sử dụng.
Hiện, sản phẩm mới ở quy mô phòng thí nghiệm nên giá thành còn cao so với các sản phẩm thức ăn chăn nuôi trên thị trường. Tuy nhiên, khi mở rộng sản xuất ở quy mô công nghiệp, các quy trình và sản lượng sẽ được tối ưu, qua đó giảm giá thành và tăng tính cạnh tranh.
Nghiên cứu bèo tấm của Ngọc Hà là một phần trong dự án khảo sát khoảng 100 loài bèo bản địa trên cả nước, do cô cùng 4 cộng sự là sinh viên Trường Đại học Đà Lạt thực hiện. Mục tiêu của nhóm là nghiên cứu những loài bèo có thể làm thức ăn cho người. Đây là hướng nghiên cứu đang được một số quốc gia theo đuổi và đã được công nhận đáp ứng đủ các tiêu chí để làm thực phẩm cho người.
Theo đánh giá của các chuyên gia, dự án sử dụng bèo tấm làm thức ăn chăn nuôi của Ngọc Hà mang ý nghĩa kinh tế và môi trường rõ nét khi tận dụng nguồn bèo sẵn có, chi phí thấp để sản xuất thức ăn xanh giàu dinh dưỡng cho vật nuôi.
Nghiên cứu này mở ra hướng đi mới, giúp nông dân giảm chi phí thức ăn, tăng hiệu quả sử dụng diện tích mặt nước, đồng thời tạo cơ hội sinh kế và khởi nghiệp cho người dân cũng như các hợp tác xã. Việc thu gom và nuôi trồng bèo tấm có kiểm soát còn góp phần hạn chế ô nhiễm, cải thiện chất lượng nước, giảm lượng chất thải hữu cơ ra môi trường, hướng tới mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp.
Dự án “Từ bèo tấm đến thức ăn xanh - Một giải pháp đổi mới trong nông nghiệp bền vững” do Phạm Ngọc Hà thực hiện, dưới sự tư vấn khoa học của PGS.TS Hoàng Thị Như Phương (Khoa Sinh học, Trường Đại học Đà Lạt) đoạt giải Dự án tiềm năng tại Cuộc thi Khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao năm 2025 do Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TPHCM tổ chức.