Liên quan đến Nguyễn Lượng, giới nghiên cứu Kiều học nhận thấy trong lời bình bằng chữ Hán của ông có bốn chữ “bách chủng hoan ngu”. Chắc chắn ông không dám viết chữ “chủng” vào thời Nguyễn vì vào năm 1803 Gia Long đã có lệnh cấm dùng chữ “chủng”, và khi viết phải thay bằng chữ “Thực”.
Trương Chính nhận xét trong Truyện Kiều có những câu nghịch ngôn, như: “Bó thân về với triều đình/ Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?”, rồi “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” và khẳng định những câu này chỉ có thể được sáng tác trước thời Nguyễn.
Nhà Kiều học Nguyễn Khắc Bảo nhận thấy bản “Liễu Văn Đường 1871” còn sót các chữ đáng phải kiêng dưới thời Nguyễn. “Câu 853: Tuồng chi là giống hôi tanh. Câu 1310: Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa. Câu 2750: Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày. Trong đó những chữ “Chủng” là tên vua Gia Long hồi nhỏ, và chữ “Lan” là tên mẹ cả của vua Gia Long tức Huy Gia từ phi”.
Trước đây, nhiều người cho rằng, nhờ chuyến đi sứ Nguyễn Du mới được tiếp xúc với “Kim Vân Kiều truyện” để sau đó viết Truyện Kiều. Điều này, theo PGS Lê Thanh Lân là không đúng.
Ông Lân cho rằng, có nhiều giả thuyết về thời điểm “Kim Vân Kiều truyện” vào nước ta. Học giả Hoàng Xuân Hãn đoán do Nguyễn Nễ hoặc Đoàn Nguyễn Tuấn cùng đi sứ thời Tây Sơn, khoảng 1792 - 1793 mang về.
PGS Thạch Giang lại cho rằng, có thể trong chuyến đi sứ năm 1763, Thám hoa Nguyễn Huy Oánh đã mang “Hoa tiên” và “Kim Vân Kiều truyện” từ Trung Quốc về tàng trữ tại Phúc Giang thư viện. Nhờ đó Nguyễn Huy Hổ có điều kiện đọc “Hoa tiên”, Nguyễn Du do lui tới học tập nên đọc được “Kim Vân Kiều truyện” để sáng tác Truyện Kiều.
Song, điều chắc chắn ở truyện “Liên Hồ quận quân” trong cuốn “Lan Trì kiến văn lục”, viết vào khoảng 1793 - 1794 của Vũ Trinh, có câu: “Thúy Kiều gieo mình sông lớn”. Trước năm 1794 Vũ Trinh đã biết đến “Kim Vân Kiều truyện” thì Nguyễn Du đã tiếp cận không muộn hơn Vũ Trinh.
Thời gian chính xác mà Đại thi hào Nguyễn Du viết Truyện Kiều vẫn là ẩn số. |
Trong khi chưa thể khẳng định Truyện Kiều được Nguyễn Du viết trong thời điểm nào, nhiều nhà nghiên cứu ngược dòng thời gian về năm 1786 - Nguyễn Du chịu hai cái tang lớn của anh hai Nguyễn Điều (mất 7/1786), anh cả Nguyễn Khản (mất 11/1786).
Mùa đông 1796, Nguyễn Du định vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh, bị tướng Tây Sơn là Quận Công Thận bắt giam mấy tháng, rồi vì là bạn của anh Nguyễn Nễ nên được thả về an trí ở Tiên Điền, lấy biệt hiệu là Hồng Sơn liệp hộ và Nam Hải điếu đồ.
Đến lúc này, lấy việc đi săn ở Hồng Lĩnh, câu cá ở biển Nam làm sinh kế và trong lúc “Cầm đường ngày tháng thanh nhàn/ Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao”, lại nhân vì trong tủ sách của quan Tể tướng có quyển “Kim Vân Kiều truyện” nên thi hào mới dựa vào đó để sáng tác thành “Đoạn trường Tân Thanh”.
Nhà Kiều học Nguyễn Khắc Bảo phỏng đoán, những người được đọc đầu tiên có lẽ là anh rể Vũ Trinh có lời mặc bình, em ruột Nguyễn Lượng có lời chu bình rồi các cháu là Nguyễn Thiện, Nguyễn Hành, Nguyễn Thị Bành, Nguyễn Thị Đài.
Nhà Kiều học Nguyễn Khắc Bảo phỏng đoán “Truyện Kiều có lẽ được viết trong khoảng 1796 - 1801”. “Công việc sáng tác Truyện Kiều có lẽ là trong khoảng 1796 – 1801. Năm 1802 Nguyễn Du đành phải ra làm quan với triều Gia Long, nhưng vì trong Truyện Kiều viết có nhiều câu phạm đại húy nên lo sợ nếu truyền bá rộng thì “Đoạn trường Tân Thanh” sẽ thành “Đoạn đầu tân đao” hạ xuống trừng trị cả dòng họ” - Nhà Kiều học Nguyễn Khắc Bảo.
Sau này chỉ có những người thân thích như anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn mới được đọc và có bài thơ “Đề từ”, hoặc Tiến sĩ Phạm Quý Thích đọc và có bài “Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm” mà sau này các bản Truyện Kiều đều khắc in ở đầu sách như bài “Đề từ”.
Chỉ đến tháng 8/1830, vua Minh Mạng đọc Truyện Kiều và có viết bài “Thánh Tổ Nhân Hoàng đế ngự chế tổng thuyết” có câu khen ngợi Thúy Kiều: “Dùng dao nhọn sát thân, lòng trinh nữ giữ mình tiết lớn, Khuyên áo gấm quy thuận, bậc trượng phu vì nước lòng ngay. Thương chí nàng cho là hiếu trung, Xét lòng nàng cho là trinh tiết”.
Bản Kiều chép tay của Hoàng giáp Nguyễn Hữu Lập (có mẹ kế là con gái Đại thi hào Nguyễn Du) chép ở Huế năm 1870 lại do kỵ húy quá triệt để nên sửa từ ngữ của Truyện Kiều quá nhiều.
Đến tháng 3/1871 lại có bài của vua Tự Đức khen “Truyện hay nỡ để khói tan lạnh lùng”. Và có lẽ vị Hoàng đế do văn hay chữ tốt, yêu chuộng người tài nên dù có đòi nọc Nguyễn Du ra đánh trăm roi, vẫn dựa vào quyển Kiều tịch thu được trong Di cảo của thi hào mà sai người chép và vẽ 150 bức tranh minh họa cảnh vật Truyện Kiều.
Như vậy, sau khi hai vị Hoàng đế Minh Mạng và Tự Đức “bật đèn xanh” cho việc đọc Kiều thì ở Kinh thành Huế có phong trào: Làm trai mê đánh Tổ tôm/Mê ngựa hậu bổ, mê Nôm Thúy Kiều. Người ta tranh nhau sao chép Truyện Kiều đến nỗi “giấy hiếm và quý như giấy Lạc Đô”.
Đến nay, ngoài bản Kiều của Nguyễn Hữu Lập, giới nghiên cứu còn thấy bản của Tăng Hữu Ứng chép 1874, bản Nguyễn Doãn Cử, bản Diễn Châu, bản Thái Bình, bản Quế Võ, bản R2003, bản R987… Ở Bắc Thành (Hà Nội), sau khi Phạm Quý Thích có bản Kiều, các sĩ phu túc nho Bắc Kỳ như: Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Lý, Chu Doãn Trí… cũng chép và làm nhiều thơ văn vịnh Kiều.