Lời sớ của quan Ngự sử đại phu Trương Đỗ rất thống thiết nhưng ý vua không thay đổi. Tháng 9 và tháng 11 cùng năm ấy, Trương Đỗ lại dâng lá sớ thứ hai và thứ ba, phân tích hết điều lợi, điều hại, vua Trần Duệ Tông vẫn bỏ qua không nghe và lệnh cho các tướng dẫn 12 vạn quân Nam tiến.
Ngày 23 tháng Giêng năm 1377, vua Trần Duệ Tông thân chinh đem đại quân đi chinh phạt Chiêm Thành. Chế Bồng Nga sai một viên quan nhỏ tên là Thu Bà Ma đến trá hàng, nói dối là Chế Bồng Nga đã trốn mất, chỉ còn lại thành không, nên nhanh tiến quân, chớ để lỡ cơ hội.
Lúc bấy giờ, đại tướng quân của vua Trần cũng can rằng: “Cổ nhân có nói: Lòng giặc khó lường, thần xin bệ hạ hãy xét kỹ lại”. Vua không nghe, ào ạt thúc quân tiến đánh chiếm thành. Tuy nhiên, vì rơi vào ổ phục kích nên các cánh quân của nhà Trần trước – sau không cứu được nhau.
Vào giờ Tý ngày 24 tháng Giêng, quân nhà Trần tan vỡ, Trần Duệ Tông cùng các tướng sĩ đều tử trận. Thừa cơ Đại Việt như rắn mất đầu, triều đình lộn xộn, dân chúng hoang mang nên tháng 6 năm đó Chiêm Thành lại đem quân vào đánh nước ta.
Vua Trần Duệ Tông không nghe lời can, cất quân đánh Chiêm Thành nhưng thảm bại và tử trận. Ảnh minh họa: IT. |
Sau 3 lần dâng sớ can vua không được, Trương Đỗ cởi mũ từ quan về quê dạy học rồi mất tại quê nhà. Cảm mến tài năng và đức độ của nhà khoa bảng can trường, sau khi mất, ông được nhân dân tôn làm Thành hoàng làng, được thờ tự tại đình làng Phù Tải.
Trải qua các triều đại phong kiến, Trương Đỗ đều được các triều đại ban tặng sắc phong ghi nhận công lao và cho phép bản xã thờ tự. Trong đó có các sắc phong của Tự Đức ngày 24/11/1880, vua Duy Tân ngày 11/8/1909 và vua Khải Định ngày 25/7/1924.
Thân thế và sự nghiệp của ông đã được ghi chép lại tương đối rõ ràng trong các sách sử, như: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam nhất thống chí, Lê Quý Đôn toàn tập... Trong “Kiến văn tiểu lục”, nhà bác học Lê Quý Đôn đã dành cho ông sự cảm phục: “Nói về nước ta, thì triều nhà Trần có 5 người: Chu Văn An dâng sớ xin chém bọn nịnh thần, làm rung động cả trong triều, ngoài quận, rồi cáo quan, trả mũ áo về nhà không chịu tước lộc bó buộc, vua chúa phải tôn trọng, công khanh phải kính phục. Đấy là bậc thanh cao nhất.
Di tích Đàn Thiện - nơi thờ Tiến sĩ Trương Đỗ. |
Đặng Tảo được ban ơn, không lấy làm vui mừng mà cam tâm ở nơi vườn ruộng. Trương Đỗ, ba lần dâng sớ can, không được vua dùng mà bỏ quan về ở ẩn. Bùi Mộng Hoa, biết họ Hồ chuyên quyền mà đi ở ẩn không ra làm quan. Trần Đình Thâm, giả làm tai điếc để tránh tai họa mà không chịu thần phục bọn phản nghịch cướp ngôi. Bốn người này là bậc thứ hai”.
Giới sử gia đánh giá Trương Đỗ giữ chức Ngự sử đại phu, đứng đầu Ngự sử đài - cơ quan can gián vua. Do đức độ, tài năng, ông còn được vua tin cậy giao kiêm nhiệm chức Đình úy tự khanh (đứng đầu cơ quan tra xét các hình án) và Trung đô phủ tổng quản (quản lý mọi mặt của kinh thành Thăng Long). Dù quyền hành rất lớn, nhưng ông vẫn luôn giữ vững lối sống cao đẹp của một nhà khoa bảng, một chân nho mực thước.
Để ghi tạc ân đức của Tiến sĩ Trương Đỗ, xưa kia người làng Phù Tải cũ gọi các loại đỗ là đậu để không phạm húy một vị quan chính trực. Ông được thờ tại đình Võ của làng, nhưng đến năm 1947, đình Võ bị hạ giải, dân làng rước bài vị cùng khám thờ ông đến di tích Đàn Thiện, phối thờ cùng Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn và Trạng nguyên Phạm Hiên.
Đàn Thiện được đánh giá là di tích có kiến trúc độc đáo, được xây dựng vào năm 1906 mang đậm kiến trúc thời Nguyễn. Toàn bộ di tích được xây trên phần mộ tập thể của người dân thôn Phù Tải với mục đích làm nơi thờ cúng, tụng kinh cầu siêu cho người đã khuất và khuyên răn con người tích đức, hành thiện. Xưa kia, đây là trung tâm khuyến thiện, hội tụ nhiều nho sĩ, lương y đến dạy học, chữa bệnh cứu người.
Nhà sử học Ngô Sĩ Liên viết: “Trương Đỗ khi làm quan thì không giấu lời nói thẳng, thế là xứng đáng với chức vụ của mình. Khi can, dâng sớ tới ba lần, thế là dám chạm đến cả vua. Mà vua không nghe, thế là tâm trí của vua đã lẫn rồi. Người có trách nhiệm phải nói, không được nghe theo thì bỏ đi, thế là sự tiến lui của Trương Đỗ đều hợp lẽ phải vậy. Tuy lời nói thẳng thường trái tai vua, nhưng lợi cho thân vua. Việc này có thể nêu lên làm gương được”.