Không chỉ nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực, mẫn cán, Phạm Sĩ Ái còn nức tiếng ở tài văn chương. Tuy cuộc đời làm quan chỉ diễn ra khoảng tám, chín năm nhưng vua Minh Mạng đã phải khen: “Văn chương Phạm Sĩ Ái, chính sự Hà Tông Quyền”.
Theo Viện Nghiên cứu Hán Nôm, hiện đơn vị còn lưu trữ được hai tập thơ của Phạm Sĩ Ái là “Đường Trung Phạm Đôn Nhân nguyên thảo” với 162 bài và “Nghĩa Khê thi tập” với 170 bài.
Ngoài ra, còn ba tác phẩm có phần đóng góp của ông là “Chí Hiên thi thảo” - tập thơ của Nguyễn Văn Lý do Phạm Sĩ Ái phẩm bình, “Liễu Đường biểu thảo” gồm một số bài sớ, tấu, biểu của các ông Hà Tông Quyền, Phạm Sĩ Ái, Nguyễn Tư Giản và “Tại Kinh lưu thảo” - tập hợp một số bài văn của các quan chức ở kinh đô.
Thơ văn Phạm Sĩ Ái tứ sâu, lời đẹp, chất chứa yêu thương, thể hiện nhiều ưu thời mẫn thế, trăn trở về đường đời, về thế sự nhân sinh. Bởi lẽ, dù đường quan lộ của ông tuy hanh thông, được vua trọng vọng như danh tướng, danh thần, nhưng tự bản thân ông lại thấu hiểu rất rõ những hiểm nguy, lắt léo chốn quan trường, nhất là thời đại ông đang sống - vua Minh Mạng rất khắc nghiệt với người tài.
Những đại thần tài năng cùng thời như Hà Tông Quyền, Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Thực dù từng được vua Minh Mạng nhiều lần khen ngợi, nhưng chỉ một vài sơ suất nhỏ cũng đều bị cách chức, bắt làm lính hoặc đi theo hầu các sứ bộ ra nước ngoài phía biển Nam.
Bởi vậy, Phạm Sĩ Ái thân làm quan tại triều nhưng tấm lòng thì nhiều trăn trở, luôn sống khiêm cung, giữ gìn và thường chỉ kín đáo bày tỏ nỗi niềm qua văn thơ. Bởi vậy, sự nghiệp của ông được đánh giá là hùng vĩ - đúng như lời khen của vua Minh Mạng.
Triều Nguyễn đã sắc phong Hoàng giáp Phạm Sĩ Ái làm Thành hoàng làng xã Trung Lập. Ảnh minh họa: IT. |
“Nhớ ai da diết không quên/ Lòng ta nhớ bác Mẫn Hiên Bắc Hà/ Kinh người khi chọn bút sa/ Tưởng như sóng dậy đổ ra muôn trùng/ Hải hồ khí phách hào hùng/ Ôm tài lỗi lạc đầy lòng thanh cao” - Bài “Ức Cao Mẫn Hiên” (Nhớ Cao Mẫn Hiên) - Lê Hoàng dịch.
Bài thơ nhan đề “Trung dạ thuật hoài” (Tâm sự nửa đêm) gửi tặng bạn thân là tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, từng làm Đốc học, ông viết: Nhất liêm tà nguyệt ngũ canh phong/ Tâm sự du du bất khả cùng/ Nhập thế kỷ ưng yên thiệu liệt/ Tại quan vị cảm thuyết ai thông/ Kỷ hành phát biến sầu trung bạch/ Vô sở hoa khai phận ngoại hồng/ Khả thị đồng niên đồng bệnh khách/ Tri tâm ứng dữ thử tâm đồng.
Tạm dịch: Một mảnh trăng tà bên rèm và gió suốt năm canh/ Tâm sự rối bời khôn cùng/ Nhập thế phải chăng là vẻ vang/ Giữ chức quan không dám nói đến sự buồn thương/ Đôi phen do sầu muộn mà tóc bạc cả rồi/ Không hay biết hoa nở phô vẻ hồng/ Khá là người bạn cùng tuổi, cùng mang bệnh/ Hiểu tấm lòng ta và cũng một tấc lòng như ta.
Là bạn tâm giao của Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Phạm Sĩ Ái dành nhiều tình cảm và tác phẩm cho các danh tài này, nhất là Cao Bá Quát. Trong tập “Phạm Đôn Nhân nguyên thảo”, có tới hơn 10 bài viết cho danh sĩ họ Cao.
Khi ông mất, không có con trai, chỉ có 4 người con gái còn nhỏ. Có người Phủ quân tên là Trạc đã đứng lên tìm nơi đất tốt có cây lớn để lo liệu việc tang chế cho ông. Ban đầu, ngôi mộ nằm trên gò cao rộng hơn mặt ruộng khoảng một mét. Bốn góc có trụ cao đắp hình hoa sen và đôi câu đối chữ Hán với những đường nét hoa văn tinh tế.
Năm 1977, huyện Mỹ Văn (nay là Mỹ Hào) dùng nơi đây làm Trạm y tế nên dòng họ phải di chuyển mộ và tấm bia đã được khắc vào thời vua Thiệu Trị đến địa điểm khác. Hiện nay, ngôi mộ và tấm bia ghi chép về ông tọa lạc tại thôn Nghĩa Lộ, phường Phùng Chí Kiên.
Miếu thờ Hoàng giáp Phạm Sĩ Ái được dựng trên nền đất cũ vẫn được bảo lưu. Tại khuôn viên có hương án, đỉnh hương, bia đá. Trên bia khắc “Bài ký về ông Đoan Trực Phạm phủ quân, nguyên chức Binh bộ lang trung biện lý bộ vụ”, ghi sự nghiệp, chức vị Phạm Sĩ Ái. Văn bia do bạn ông là Nguyễn Bảo viết năm Tân Sửu (1841).
Cuộc đời ngắn ngủi 34 năm sống cõi nhân gian, 8 năm phục vụ triều đình nhưng được vua sắc phong, được dân tôn thánh đã thể hiện tài năng và đức độ của Phạm Sĩ Ái. Cách mà triều đình cấp tiền xây miếu, xây mộ cho vị Hoàng giáp vắn số cũng thể hiện sự trân trọng tài học của người xưa.