Bảng nhãn Việt Nam: (kỳ 10): Đỗ quan triều Mạc, tiết nghĩa triều Lê

Trần Hoà | 17/01/2022, 15:42
Theo dõi Giáo dục Thủ đô trên

Đỗ Bảng nhãn triều nhà Mạc, nhưng Đỗ Uông lại sáng chói khi làm quan dưới triều nhà Lê.

Khi đến làng Hoạch Trạch, dân chúng biết có cả Trạng nguyên lẫn Bảng nhãn vinh quy bái tổ đi ngang qua thì mừng lắm, liền chạy đến xin thơ để đề vào chiếc cầu ở đầu làng. Đây là một chiếc cầu ngói hơn mười gian.

bang-nhan-ky-10.3.jpg

Đỗ Uông là một trong số ít các đại khoa biết trước sẽ đỗ Bảng nhãn.

Sẵn có chuyện ganh đua, hai người bèn thách nhau làm thơ, qua 7 gian phải vịnh xong, ai xong trước sẽ được đi trước. Mới đi được mấy bước thì Phạm Trấn đã đọc luôn 8 câu thơ khiến ai cũng phục tài, nhưng Đỗ Uông không phục cho rằng bài thơ đã được làm từ trước, nên lại vẫn cho ngựa đi ngang hàng với Trạng nguyên.

Hai người cùng ngang hàng đi đến làng Minh Luận. Tại đấy có người mới làm xong nhà nên xin câu thơ mừng nhà mới. Phạm Trấn liền đọc luôn: Năm năm thêm phú quý/ Ngày ngày hưởng vinh hoa/ Xưa có câu như thế/ Nay mừng mới làm nhà.

Lúc này Đỗ Uông mới cảm thấy Phạm Trấn có tài năng, nhưng trong lòng vẫn chưa phục.

Hai người về đến cầu làng Đoàn Lâm, tên tục gọi là cầu Cốc, trong cầu có cô bán hàng tên Loan. Hai người liền thách nhau cùng làm bài thơ Nôm lấy đề là “Cô Loan bán hàng cầu Cốc”, mỗi câu phải có 2 giống chim, qua cầu phải đọc xong, ai xong trước được đi trước mà không tranh nhau nữa.

Vừa thống nhất xong, ngồi trên lưng ngựa, Phạm Trấn đã đọc ngay rằng: Quai vạc đôi bên cánh phượng phong/ Dở giang bán chác lựa đồ công/ Xanh le mở khép nem hồng mới/ Bạc ác phô phang rượu vịt nồng…/ Yến anh đón rước vừa ban tối,/ Ông mổ bà, bà lại quạc ông.

Sau khi Phạm Trấn nhiều lần thể hiện tài năng của mình, Đỗ Uông mới hiểu ra, chịu phục và để cho Trạng nguyên được đi trước theo đúng lệ.

Tiết nghĩa nhà Lê

Năm Giáp Tuất 1574, đời Mạc Mậu Hợp, Đỗ Uông làm Hữu thị lang Bộ Binh, kiêm Vương phó - là thầy của các bậc vương công. Sau đổi làm Tả thị lang Bộ Công. Năm Mậu Dần (1578), ông làm chánh sứ qua nhà Minh dâng lễ cống. Khi trở về thăng Thượng thư bộ Lại, kiêm Đông các đại học sĩ, tước Phúc quận công.

Cuối năm 1592, khi nhà Mạc mất, ông cùng một nhóm quan lại cũ của nhà Mạc phù tá nhà Lê, được vua Lê cho giữ nguyên chức vụ, chỉ đổi tên tước là Thông Quận công. Sau ông được phong giữ chức Thượng thư Bộ Hộ, tước phong Thông quận công, được cử cùng Ngự sử đài đô ngự sử Nguyễn Văn Giai làm quan hầu mệnh đến cửa Trấn Nam Giao, trao đổi điệp văn thư từ với viên Tả giang binh tuần đạo nhà Minh là Trần Đôn Lâm.

bang-nhan-ky-10.2.jpg

Đỗ Uông là một trong những nhà khoa bảng lớn và lập nhiều công trạng.

Tháng 12 âm lịch (1597), Đỗ Uông làm quan hầu mệnh, cùng với Quảng quận công Trịnh Vĩnh Lộc mang hai người vàng, người bạc và các vật cống tới thành Lạng Sơn đợi nhà Minh hội khám. Bấy giờ viên thổ quan Long Châu của nhà Minh nhận nhiều của đút lót của họ Mạc, vì thế tìm cách thoái thác, việc không xong lại vừa gặp Tết Nguyên Đán nên trở về kinh.

Ngày 19 tháng 2 âm lịch năm sau, ông lại cùng Nguyễn Văn Giai đi Lạng Sơn, gặp nạn nhưng thoát được. Tháng 11 âm lịch năm 1598, ông được phong hàm Thiếu bảo.

Ngày 6 tháng 12 âm lịch, Tiết chế Trịnh Tùng sai ông chuẩn bị nghi chú, lễ vật đến cửa Trấn Nam Giao đón tiếp Bắc sứ của nhà Minh.

Vào năm 1600, trong nước có biến, một số tướng lĩnh cũ nhà Mạc làm phản. Vua Lê phải chạy về Tây Đô (Thanh Hóa). Đỗ Uông ra sức can ngăn, khuyên ở lại Kinh đô cố thủ chờ quân cứu viện. Chúa Trịnh nghĩ Đỗ Uông vốn là bề tôi cũ của nhà Mạc nên cho là có mưu đồ xấu, bèn cầm giáo đâm chết ông.

Tuy nhiên, theo sách “Lịch triều hiến chương loại chí” thì Đỗ Uông bị quân phản loạn giết chết, chứ không phải do chúa Trịnh nghi ngờ mà giết.

Sau vụ biến loạn này, vua Lê thấy rõ lòng trung thành tiết nghĩa, trung quân ái quốc của Bảng nhãn Đỗ Uông nên ra chiếu minh oan. Đỗ Uông được truy tặng hàng “Thái bảo”, phong làm phúc thần, ban sắc và cho dân làng lập miếu thờ. Thi hài ông được đem về an táng tại đống Mả Lái, ông được phong làm Thành hoàng làng Đoàn Lâm, nơi thờ ông gọi là đình Đông, xã Thanh Tùng (Thanh Miện).

Hiện nay, tại đình thờ Đỗ Uông còn lưu giữ được 3 đạo sắc phong vào năm Tự Đức thứ 33 (1880), Đồng Khánh năm thứ 2 (1887), Duy Tân năm thứ 3 (1909) và một bức hoành phi dựng vào năm Canh Ngọ, niên hiệu Bảo Đại (1930) ghi chép những điều quý báu về sự tích của Đỗ Uông.

Hoành phi có đoạn viết: “Phụng trời giúp đời, cứu nước, an dân… kiên trung, nghĩa lớn, nghị luận chính đáng, đạo đức trong sáng, công trạng lớn lao, oanh liệt, mưu kế hiển hách… văn chương vì nước vì dân hết lòng hiến dâng sự tinh anh tài giỏi cho dân,… công trạng lớn lao, chiến tích vĩ đại”.

Đình thờ và lăng mộ Đỗ Uông được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 2002. Vào ngày 8 tháng giêng hằng năm, dân làng Đoàn Lâm lại long trọng tổ chức tế lễ tưởng nhớ, tri ân công lao của Bảng nhãn Đỗ Uông.

Bài liên quan
Bảng nhãn Việt Nam - Kỳ 4: Văn chương áo mũ, khai dựng quốc sử
Là người mở đầu khoa bảng xứ Thanh, và là vị Bảng nhãn thứ 2 của Việt Nam – Lê Văn Hưu toả sáng khí phách văn chương, dựng bộ quốc sử đầu tiên của nước Nam.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Bảng nhãn Việt Nam: (kỳ 10): Đỗ quan triều Mạc, tiết nghĩa triều Lê