Tiến sĩ Vũ Công Trấn thấy đứa trẻ hỗn xược không thèm trả lời, lúc vào nhà mới biết thằng nhỏ là con bạn mình, muốn thử tài bèn gọi ông lên mắng cho một trận rồi bắt phải làm một bài thơ tự trách mình trong đó mỗi câu đều phải có tên một thứ rắn, làm không làm được sẽ bị đánh đòn vì tội hỗn láo.
Cậu bé Lê Quý Đôn ứng khẩu làm bài thơ nôm “Rắn đầu biếng học”: Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà!/Rắn đầu biếng học lẽ không tha/Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ/Nay thét mai gầm rát cổ cha/Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo/Lằn lưng cam chịu vết roi da/Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học/Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!
Vũ Công Trấn vốn là danh sĩ hay chữ, thấy thơ cậu bé đúng vần, đúng luật, hợp đầu đề, ý tứ lại cao kỳ mới công nhận là “thần đồng”, và tỏ ý thán phục.
Một hôm Lê Quý Đôn đến chơi nhà Lý trưởng, thấy trên bàn có quyển sổ biên tên những người thiếu thuế. Cậu bé mở ra xem thấy người thì thiếu năm bảy đấu thóc, người thì vài quan tiền. Ít lâu sau nhà Lý trưởng bị cháy, quyển sổ thiếu thuế cũng bị thiêu hủy.
Khi gặp Lê Quý Đôn, Lý trưởng than không biết tra cứu vào đâu để đòi tiền. Ông bèn đọc lại từ đầu đến cuối cho chép lại. Lý trưởng không dám chắc chắn, nhưng đến khi đi thu các khoản nợ thì đúng cả, không ai than phiền khiếu nại gì.
Cho đến nay, gần 300 năm kể từ khi Lê Quý Đôn chào đời, nhưng tại thôn Phú Hiếu cũng như xã Độc Lập vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện vừa thực vừa huyền bí. Trong đó phần lớn thể hiện sự thán phục, ngưỡng mộ của người đương thời và hậu thế đối với một bộc óc vĩ đại như Lê Quý Đôn.
Đăng khoa Bảng nhãn, bách khoa thời đại
Theo các tài liệu “Đăng khoa lục”, vào năm Kỷ Mùi, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Năm Quý Hợi (1743), đời vua Lê Hiển Tông, ông dự thi hương và đỗ đầu lúc 18 tuổi. Sau khi đỗ, vì không muốn trùng tên với Nguyễn Danh Phương - một thủ lĩnh nông dân đang nổi lên chống triều đình, nên ông đã đổi tên là Lê Quý Đôn.
Sau đó, ông cưới bà Lê Thị Trang ở phường Bích Câu làm vợ. Bà là con gái thứ 7 của tiến sĩ Lê Hữu Kiều. Tuy đỗ đầu khoa thi hương, nhưng thi hội mấy lần ông đều không đỗ. Lê Quý Đôn ở nhà dạy học và viết sách trong khoảng 10 năm. Bộ sách “Đại Việt thông sử” được Lê Quý Đôn làm trong giai đoạn này.
Năm 27 tuổi (Nhâm Thân 1752), ông lại dự thi hội, và lần này thì đỗ hội nguyên. Vào thi đình, ông đỗ luôn Bảng nhãn. Vì kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên nên kể như cả ba lần thi, Lê Quý Đôn đều đỗ đầu. Sau khi đỗ đạt, ông được giao nhiều chức vụ quan trọng của triều đình Lê - Trịnh.
Lê Quý Đôn khiến quan lại nhà Thanh phải tôn trọng, đổi cách xưng hô từ “di quan di mục” (tức quan lại mọi rợ) thành “An Nam cống sứ” với các sứ thần Đại Việt. Đoàn sứ của Triều Tiên cũng phải nể phục, ca ngợi tài văn thơ của ông. Theo sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, năm 1762 Lê Quý Đôn được thăng chức Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, rồi làm Học sĩ ở Bí thư các để duyệt kỷ sách vở.
Lê Quý Đôn là tác giả của nhiều tác phẩm khảo cứu về lịch sử, địa chí, văn hóa Việt Nam. Về lịch sử - địa lý, ông có các tác phẩm: “Đại Việt thông sử” với 30 quyển ghi chép về hơn 100 năm của triều nhà Lê, bắt đầu từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng. “Phủ biên tạp lục” (6 quyển), viết xong năm 1776, ghi chép về tình hình xã hội Đàng Trong từ thế kỷ thứ 18 trở về trước.
Cuốn “Vân đài loại ngữ” (9 quyển) được Lê Quý Đôn hoàn thành vào năm 1773, được coi là “bách khoa thư” đồ sộ nhất thời phong kiến Việt Nam. Tác phẩm tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học... sắp xếp theo thứ tự: Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội...
Lê Quý Đôn thật là một nhà bác học ở đời Lê mạt: một tay ông đã biên tập, trứ thuật rất nhiều sách. Tuy tác phẩm của ông đã thất lạc ít nhiều nhưng những bộ còn lưu lại cũng là một kho tài liệu để khảo cứu về lịch sử, địa dư và văn hóa của nước Việt.
GS. Dương Quảng Hàm