Nhờ mưu trí và lòng dũng cảm của tướng Lê Duy Hàn và thầy trò Nguyễn Mẫn Đốc, vua Lê Chiêu Tông đã thoát khỏi vòng vây quân Mạc để lui về rừng núi huyện Lương Sơn. Tại đây, họ lại phải tử chiến với Phạm Trung Lập. Lê Duy Hàn ở đoạn hậu vượt lên kịp ứng cứu. Thầy trò Nguyễn Mẫn Đốc lại tiếp tục hộ giá nhà vua.
Dương Chấp Nhất được tin Phạm Trung Lập thất bại liền đuổi theo, hợp với tàn binh trước, tấn công mạnh thầy trò Nguyễn Mẫn Đốc. Lực lượng ít, lại gặp cường địch nên Nguyễn Mẫn Đốc vừa phải chống trả vừa lui quân. Vua tôi vì vậy mà lạc nhau. Đến được địa phận Lam Sơn thì các nghĩa sĩ bị tử thương đã nhiều trong khi quân Mạc còn dư sức.
Vũ Duệ bèn rút gươm chỉ lên trời mà hét to: “Ta liều thân để đáp đền nợ nước. Nhưng than ôi, sức cùng, lực tận rồi!”. Nói đoạn, hai thầy trò Trạng nguyên Vũ Duệ - Bảng nhãn Nguyễn Mẫn Đốc sửa mũ áo cùng hướng về lăng vua Lê Thái Tổ mà bái lạy rồi tự vẫn.
Hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1522, ông hưởng thọ 31 tuổi.
Tiết nghĩa Đại vương
Nguyễn Mẫn Đốc là một trong 13 bề tôi có công theo vua Lê mà tiết nghĩa được truy phong Tiết Nghĩa Đại Vương, thụy Nhã Lượng. Năm 1667 (Đinh Mùi) đời Cảnh Trị thứ 5, niên hiệu vua Lê Huyền Tông, cho phép lập “Tiết Nghĩa từ” ở quê hương, xuân - thu nhị kỳ, gia ban quốc tế. Đây cũng là lúc triều Mạc Kinh Vũ, triều vua cuối cùng của nhà Mạc tan rã.
Tên của Nguyễn Mẫn Đốc được ghi vào bia đề danh tiến sĩ khoa Mậu Dần, niên hiệu Quang Thiệu 3 đặt ở Quốc Tử Giám (bia số 13). Hài cốt của ông được liệm trong quan, ngoài quách đồng, cho rước về quê táng tại một quả đồi ở xóm Lũng Bô. Còn được dựng lăng miếu thờ theo lệ của một vương tước, vì thế nơi ấy có tên là Rừng Lăng.
Đôi câu đối tương truyền do vua ban được lưu truyền trong dòng họ và làng xã một thời: “Tảo tuế khôi khoa thiên hạ hữu – Trung thần tiết nghĩa thế gian vô”, nghĩa là: Đỗ đạt sớm thì thiên hạ có người – Ít tuổi mà tiết nghĩa thế gian không có ai.
Ở Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu trữ bản chữ Hán lẫn Quốc ngữ, do lý trưởng Nguyễn Liên, tiên chỉ Lê Như Bách và trưởng bạ Nguyễn Viết Đạo thị thực, ký tên áp triện năm 1943, ghi lại đôi câu đối: “Thần trung tử hiếu cương thường tại – Địa hiếu thiên lưu tiết nghĩa trường” (bề tôi trung, con cháu hiếu thảo, cương thường còn, tiết nghĩa bền).
Sách “Tam khôi bị lục” của Hồ Ngu Thụy gọi ông là “Thiếu niên kim tiết” (tuổi trẻ mà khí tiết như vàng). Các triều vua nối tiếp nhau đều có sắc phong cho Nguyễn Mẫn Đốc, tất cả gồm 10 đạo, bản gốc hiện vẫn còn được cất giữ tại đền thờ ông.
Nguyễn Mẫn Đốc cũng được phong Thành hoàng làng Xuân Lũng, Thượng đẳng phúc thần, một nhân thần bên cạnh thiên thần Thành hoàng Cao Sơn Đại Vương. Một số làng xã trong bản huyện cũng tôn ông làm Thành hoàng làng mình.
“Trùng thuyên bi ký” khi bàn về Nguyễn Mẫn Đốc có bài tán: Khoa bảng đỗ đầu/ Theo vua tiết nghĩa/ Sinh tử đều vinh/ Cương thường giữ trọn.
Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân Hà Nhậm Đại có thơ khen Nguyễn Mẫn Đốc in trong tập “Khiếu vịnh thi tập”, đại ý: Nhà vua gặp nạn quyết phò nguy/ Hoạn nạn, lời thầy vẫn nhớ ghi/ Quán trọm mắng ngay phường chó lợn/ Bo bo danh lợi ấy mà chi/ Nhớ lúc ba sinh niềm vui cuối/ Nghĩa vì một chết để làm ghi/ Tiết trong, nước bạc lưu muôn thuở/ Tên ở Lam Sơn, đá chẳng đi.
Xả thân vì vua, Nguyễn Mẫn Đốc đã tỏ rõ lòng trung quân ái quốc. Đấy chính là điểm ngời sáng trong phẩm chất tính cách của một nho sĩ trung thần hiếm gặp. Sắc ban cho lập “Tiết Nghĩa từ” chính là nhằm tôn thờ lòng yêu nước của ông.
Năm 2015, Tiết Nghĩa từ - Đền thờ Bảng nhãn Nguyễn Mẫn Đốc chính thức được Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia.
Năm 2011, Văn chỉ làng Dòng được khôi phục, bài minh trong “Trùng thuyên bi ký” (dựng năm 1793) có câu: “Kẻ sĩ chen vai - Nhà nhà thi lễ” để nói về phong trào học tập ở làng Dòng. Bảng nhãn Nguyễn Mẫn Đốc không chỉ sinh ra trong gia đình thi lễ, anh rể ông – danh sĩ Nguyễn Hãng là tác giả bài phú “Đại Đồng phong cảnh” - thiên bút có một không hai dưới gầm trời nước Nam.