Cùng quê Hải Hương, có Ngô Hoán ở xã Thượng Đáp, huyện Thanh Lâm, nay thuộc Nam Hồng, huyện Nam Sách đỗ Bảng nhãn khoa Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức (1490). Ông được tuyển vào Đông các làm chức Hiệu thư, có dự Tao Đàn nhị thập bát tú. Làm quan trải bốn triều tới chức Thượng thư bộ Lại.
Ngô Hoán đứng hàng thứ hai danh hiệu Tam khôi ở tuổi 31. Sách “Thiên Nam sự tích” chép rằng, lúc Ngô Hoán đi thi hội và thi đình, khi qua sông (Uông), thấy dòng sông cạn và hẹp, có thể bắc cầu được, ông bèn vái thần sông rằng: “Nguyền được đỗ cao, xin bắc cầu để đền ơn”. Quả nhiên kỳ thi ấy ông đỗ Bảng nhãn, nhưng lại quên bẵng việc bắc cầu như lời đã hẹn.
Khi ông phò vua Lê Chiêu Tông, thế lực họ Mạc sai người đi tìm bắt được hai người con của ông để giết đi. Nhưng sau lại sai người phi ngựa truyền tha không giết nữa. Ngặt nỗi người đưa tin phi ngựa tới khúc sông ngày trước Ngô Hoán đã qua, gặp lúc trời tối không qua được đành chờ đến sáng mai. Bởi vậy mà việc tha chết bị trễ, hai con ông mất mạng.
Ngô Hoán được đánh giá có tiếng về văn từ, được vua Lê Thánh Tông phong làm Sái phu (Phu quét dọn - nghĩa là sửa chữa, tuyển chọn thơ văn của hội Tao Đàn), đứng hàng thứ tư trong 28 học sĩ của hội Tao Đàn. Những thư từ ông viết có mặt trong “Minh lương cẩm tú” và tập “Quỳnh uyên cửu ca”.
Tuy nhiên, ông lại dính vào một vụ án xảy ra vào năm Canh Thân (1500), theo “Công dư tiệp ký” có lược qua rằng: “Trong khoảng niên hiệu Cảnh Thống, ông bị tội phải đi sung quân”.
“Đại Việt sử ký toàn thư” ghi lại rằng: “Biếm Đông các Hiệu thư Ngô Hoán, sung làm quân ở bản phủ vì tội đem việc trong triều nói với người ngoài”.
Tội này của Ngô Hoán, xét trong “Quốc triều hình luật” hoặc những sắc lệnh của vua Lê đã có quy định rõ ràng mức tội cho việc giao thiệp với người ngoài, làm lộ việc nước có thể phải bị chém. Điều 20 Chương Vi chế quy định nghiêm ngặt: “Những người tiết lộ những việc đại sự cần giữ bí mật, thì xử tội chém”.
Sự việc Ngô Hoán bị biếm chức, sung quân làm lính có thể một sự gia ân của vua Lê trước tài năng văn chương hiếm có, để ông lập công chuộc tội.
Trở lại quan trường
Khoảng sau một năm sung quân, tức năm Tân Dậu (1501), triều đình lại rổ chức kỳ thi hương. Dù trước đây là Bảng nhãn dưới triều Hồng Đức, nhưng bị tội mà bãi chức làm lính, Ngô Hoán lại tiếp tục đi thi và đỗ tam trường, nhưng không được cho vào tứ trường bởi tội đã phạm trước đó.
Được thi đỗ lần hai nhưng sử sách không cho biết sau đó Ngô Hoán có được làm chức gì trong triều hay không. Đến năm Ất Sửu (1505) khi Lê Tuấn lên ngôi hoàng đế, tức vua Lê Uy Mục - vị vua này tiếc tài nên “khởi phục Ngô Hoán làm Hiến sát sứ Thanh Hoa.
Cuối năm Đoan Khánh thứ 5 (1509) Giản Tu công Lê Oanh (tức Lê Tương Dực) lên ngôi, đổi niên hiệu thành Hồng Thuận năm thứ 1. Ngô Hoán được vua chọn làm Tán trị thừa tuyên sứ ty thừa tuyên sứ Thanh Hoa, ít lâu sau trao cho chức Lễ bộ Thượng thư.
Tháng 10 năm Quang Thiệu 3 (1518) vua Lê Chiêu Tông sai ông cùng Nguyễn Thì Ung, Nguyễn Nghiễm, Lê Ý sang tuế cống nhà Minh và xin phong, nhưng vì trong nước còn loạn, nên không đi được.
Tháng 8 năm Quang Thiệu thứ 7 (1522), Mạc Đăng Dung lập hoàng đệ Lê Xuân lên làm vua, tức là Lê Cung Hoàng. Năm sau, nhân danh vua mới tuyên bố phế truất Chiêu Tông, và dần thâu tóm quyền lực trong tay. Năm 1927, Lê Cung Hoàng sai đình thần cầm cờ tiết đem kim sách, áo mão thêu rồng đen, đai dát ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, lọng tía đến Cổ Trai, tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng vương.
Nhưng mấy tháng sau, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai trở lại kinh đô ép vua nhường ngôi. Theo một số nguồn sử liệu, Lại bộ Thượng thư Vũ Duệ, Lại bộ Thượng thư Ngô Hoán cùng với môn đồ là Nguyễn Mẫn Đốc thống suất hương binh đi theo vua Lê Chiêu Tông. Khi đến Thanh Hoa, đứt liên lạc, không biết vua ở đâu. Họ đều hướng về lăng tẩm Lam Sơn, bái vọng rồi tự vẫn cả.
Khi triều Lê được khôi phục, Ngô Hoán được truy phong là Suy trung công thần, gia phong ông là Phúc thần. Nhân dân Thượng Đáp đã lập đền thờ ở phía tây thôn này, gọi là từ vũ Thượng Đáp, vào năm Chính Hòa thứ 4 (1683) thời Lê Hy Tông.
Từ vũ này được trùng tu vào các năm 1889 và 1929, xây theo hình chữ nhị. Trong từ vũ còn có nhiều câu đối đại tự, bi ký ca ngợi công lao của ông với đất nước. Năm 1991, từ vũ Thượng Đáp được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia.
Một số tài liệu viết Ngô Hoán thắt cổ (uống thuốc độc?) tuẫn tiết, lấy cái chết của mình để khích lệ binh tướng chạy sang Ai Lao theo Nguyễn Kim dựng lại nghiệp cho nhà Lê. Cuối năm 1532 đầu năm 1533, Nguyễn Kim đưa Lê Duy Ninh lên ngôi vua ở Ai Lao, lấy niên hiệu Nguyên Hoà. Vì vậy, theo một số tài liệu của Ngô tộc xác định Ngô Hoán mất năm 1532 chứ không phải 1522.