Bệnh thoái hoá khớp: dấu hiệu và cách điều trị

Phạm Hoa | 25/10/2023, 06:10
Theo dõi Giáo dục Thủ đô trên

(GDTĐ) - Bệnh thoái hoá khớp (còn gọi bệnh hư khớp) là một bệnh mạn tính, gây thoái hoá và biến dạng khớp do sự phá huỷ sụn khớp và hệ thống bao khớp - dây chằng.

Thoái hoá khớp có thể nguyên phát hoặc thứ phát

Thoái hoá khớp nguyên phát do lão hoá của mô khớp, hoặc do sụn khớp không được tưới máu và nuôi dưỡng kém... dẫn đến mất tính đàn hồi và khô cứng. Khi hoạt động, sụn chạm vào đầu xương gây hoại tử ở nơi chịu áp lực mạnh nhất. Bệnh này chỉ gặp ở người trên 40 tuổi.

Khác với thoái hoá khớp nguyên phát, thoái hoá khớp thứ phát thường do sự lão hoá sớm của sụn khớp, xuất hiện sau chấn thương làm tổn thương diện khớp hoặc từ những chấn thương nhỏ nhưng tác động nhiều lần, khớp hoạt động quá tải; do di chứng của viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm đa khớp dạng thấp...

Những người béo phì cũng thường mắc chứng hư khớp do quá nặng cân, các khớp luôn trong tình trạng bị sức ép lớn. Những thể thứ phát này thường trầm trọng hơn những thể nguyên phát. Ngoài ra, những yếu tố về thời tiết, khí hậu... cũng là điều kiện để bệnh xuất hiện.

Thoái hoá khớp nguyên phát ở các khớp được xếp theo thứ tự "ưu tiên" như sau: Khớp liên đốt sống trên dưới 50% các trường hợp; khớp gối 13%; khớp háng 18%; khớp liên đốt ngón tay 6%; và các khớp khác 20%.

Tổn thương khớp bắt đầu từ những hoại tử của sụn khớp, sau đó là sự phá hủy hệ thống trượt ở những vùng tỳ đè của xương dưới dạng một dải xơ và đường viền xung quanh khớp, các gai xương ở ngoại vi khớp.

Bao hoạt dịch dày lên, hình thành những đường vân, có thể sụn hoá. Sụn hoá của bao hoạt dịch rơi vào ổ khớp gây cản trở cho hoạt động của khớp. Các xơ co kéo gây nên tình trạng cứng khớp.

Bệnh thoái hoá khi nguyên phát hay gặp ở người từ 40 tuổi và ở phụ nữ sau mãn kinh, nhưng điều nguy hiểm là thoái hoá khớp hầu như không có triệu chứng.

Các dấu hiệu chỉ xuất hiện khi xương và hệ thống bao khớp hoạt dịch bị tổn thương thực sự. Bệnh thường khởi đầu âm ỉ, tiến triển chậm với những giai đoạn được cải thiện theo cảm nhận chủ quan.

thoai-hoa-khop.png
Bệnh thoái hoá khớp là một bệnh mạn tính, gây thoái hoá và biến dạng khớp do sự phá huỷ sụn khớp và hệ thống bao khớp - dây chằng.

Điển hình như người bệnh đau khớp vào buổi sáng khi vừa ngủ dậy,  đau giảm sau khi khớp được hoạt động và hết đau khi nghỉ ngơi. Khớp không sưng và không có các dấu hiệu toàn thân.

Khi khám, phát hiện các dấu hiệu hạn chế cử động, các cơ chi phối hoạt động của khớp bị teo và co cứng tăng trương lực, có tiếng lục cục trong khớp khi cử động, có thể sờ thấy đường viền khớp và gai xương.

Xét nghiệm cho thấy: Hoạt dịch trong, quánh, chứa dưới 3.000 bạch cầu/1mm và dưới 25% là bạch cầu đa nhân trung tính; tốc độ máu lắng bình thường; chụp X quang không có sự tương xứng giữa triệu chứng chủ quan và những tổn thương trên phim.

Tuỳ theo giai đoạn có thể thấy hình ảnh hẹp khe khớp với sự phá huỷ một phần hay hoàn toàn sụn khớp, ăn mòn diện khớp ở vùng tỳ đè.

Các dấu hiệu của loãng xương cũng có thể được phát hiện nếu sử dụng những phương pháp đặc biệt để phát hiện sớm các tổn thương của khớp như: chụp cắt lớp, cộng hưởng từ, soi ổ khớp...

Chuẩn đoán thoái hoá khớp dựa vào những yếu tố như đau khớp tăng khi hoạt động và giảm khi nghỉ ngơi; không có triệu chứng toàn thân như sốt… những dấu hiệu viêm tại chỗ rất í ặc không dich ổ khớp không có biểu hiện viêm, không có mủ; chụp X quang thấy hẹp khớp, ăn mòn diện khớp... .

Lưu ý phân biệt thoái hoá khớp với viêm đa khớp dạng thấp: viêm khớp tại chỗ rất rõ (sưng, nóng, đỏ, đau) dịch ở khớp biểu hiện viêm; tốc độ lắng máu tăng...

thoai-hoa-khop-goi.png
                                   Những người bệnh nên tập thể dục để khớp được vận động nhiều hơn

 Điều trị thoái khoá khớp

Điều trị nội khoa ở giai đoạn đau khớp, người bệnh cần phải nghỉ ngơi, tránh tất cả những hoạt động gây đau. Dùng vật lý trị liệu để làm tăng tưới máu tại chỗ cho khớp.

Trong giai đoạn đau khớp cấp, bất động khớp, thậm chí bó bột là điều rất cần thiết (chỉ nên bất động trong thời gian ngắn để tránh cứng khớp). Ngay sau khi hết đau cấp phải tập vận động khớp nhẹ nhàng, phù hợp.

Để dự phòng những tư thế xấu (khớp gối vẹo vào trong hoặc quay ra ngoài) hoặc để giảm đau có thể sử dụng các loại: băng, nịt, nẹp, khung đỡ... hay đơn giản như là một là chiếc gậy, một chiếc nạng nếu bị hư khớp chi dưới.

Thuốc: Những thuốc cơ bản là thuốc chống viêm, giảm đau như aspirin và nhiều thuốc không có steroid (ibuprofen, diclofenac, indometacin...) sử dụng đường uống hoặc xoa bóp có tác dụng rõ rệt.

Những thuốc an thần, đặc biệt nhóm diazepam có thể sử dụng trong trường hợp đau do co cơ hoặc người bệnh quá lo lắng, nhưng không được dùng dài ngày vì dễ gây nghiện.

Điều trị ngoại khoa có 3 loại phẫu thuật được áp dụng

Phẫu thuật dự phòng nhằm lập lại tình trạng bình thường các khớp có nguy cơ bị thoái hoá như trật khớp háng bẩm sinh, tiêu chỏm xương, nhuyễn sụn xương bánh chè, lệch trục đầu gối...

Phẫu thuật bảo tồn khi khớp chưa hư hỏng nặng, có thể sửa chữa khớp đưa về điều kiện cơ học của chức năng bình thường.

Phẫu thuật thay thế. Trong trường hợp khớp quá hư hỏng không thể phục hồi được có thể thay thế từng phần, thậm chí toàn bộ khớp bằng khớp nhân tạo./.

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Bệnh thoái hoá khớp: dấu hiệu và cách điều trị