Cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ và đấu thầu đối với một số ngành thiết yếu chưa được thực hiện, hoặc thực hiện gặp rất nhiều khó khăn. Chính sách tín dụng sinh viên đã nâng mức cho vay và mở rộng đối tượng thụ hưởng, nhưng lãi suất vay còn khá cao và thời hạn trả nợ vẫn tương đối ngắn, vì vậy vẫn hạn chế khả năng tiếp cận của nhiều nhóm đối tượng sinh viên.
Chủ trì hội nghị (từ trái qua phải ảnh): Bộ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ Huỳnh Thành Đạt; Chủ tịch Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương Phùng Hữu Phú; Phó trưởng Ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương Lại Xuân Môn; Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn. |
Ngoài điểm nghẽn lớn này, bà Nguyễn Thu Thủy cũng cho biết: Hệ thống quản lý nhà nước đối với GDĐH còn khá phức tạp, phân mảnh và kém hiệu quả.
Cùng với đó, hệ thống cơ sở GDĐH phát triển không đồng đều, quy mô đào tạo rất khác nhau, nhiều trường tư thục và trường trực thuộc địa phương có quy mô nhỏ và rất nhỏ, lĩnh vực đào tạo hẹp và hoạt động kém hiệu quả. Việc quy hoạch, sắp xếp mạng lưới cơ sở GDĐH nhằm tối ưu hóa sử dụng các nguồn lực, nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động của toàn hệ thống là một thách thức lớn đối với ngành.
Về quy mô đào tạo ĐH, dù tăng trở lại khá nhiều từ năm 2019, sau quá trình suy giảm hoặc không tăng từ năm 2014 (năm có quy mô đào tạo cao nhất trong giai đoạn trước); tuy nhiên, tỷ lệ 215 sinh viên/vạn dân là còn thấp so với khu vực và thấp hơn mức trung bình của các nước thuộc khối OECD. Để đạt được chỉ tiêu 260 sinh viên/vạn dân đặt ra cho năm 2030 là một thách thức rất lớn cho GDĐH Việt Nam.
Trong khi quy mô đào tạo ĐH có xu hướng tăng thì quy mô đào tạo sau ĐH ở nước ta rất thấp và không tăng trong nhiều năm qua. Đặc biệt đáng lo ngại là tỷ trọng quy mô đào tạo sau ĐH khối ngành STEM còn thấp hơn nhiều.
Đội ngũ giảng viên của các cơ sở GDĐH trên toàn quốc đã phát triển nhanh cả về số lượng, trình độ và năng lực. Tỷ lệ sinh viên/giảng viên và tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng cao trong 5 năm gần đây. Tuy nhiên, các tỷ lệ này đều rất thấp so với chuẩn mực chung của thế giới và đây là một điểm nghẽn lớn trong nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu.
Tương tự, số giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư đã tăng nhiều so với năm 2008, nhưng vẫn được đánh giá là thấp so với cả nhu cầu trong nước và tương quan khu vực.
Về năng lực nghiên cứu khoa học, mặc dù số lượng công bố quốc tế của các cơ sở GDĐH tăng rất nhanh trong những năm gần đây, nhưng đạt tỷ lệ trung bình toàn quốc vẫn khá thấp so với chuẩn mực chung của các trường ĐH trong khu vực và trên thế giới.
Như vậy, một thách thức rất lớn đặt ra cho ngành đó là phát triển cả về số lượng, trình độ, năng lực của đội ngũ giảng viên ngang tầm khu vực và thế giới.
Về hạ tầng và cơ sở vật chất: Đối sánh với các cơ sở GDĐH trong khu vực và thế giới trên nhiều phương diện thì hạ tầng và cơ sở vật chất của các cơ sở GDĐH Việt Nam có thể xếp vào mức độ thấp nhất trong các tiêu chí so sánh. Về diện tích khuôn viên và diện tích xây dựng, hầu hết các cơ sở GDĐH không đáp ứng được yêu cầu so với quy mô đào tạo nếu đối sánh với chuẩn mực chung của thế giới.
Về đầu tư cơ sở vật chất, theo khảo sát của Bộ GD&ĐT năm 2022 trên 135 cơ sở GDĐH, tỷ trọng chi trung bình cho cơ sở vật chất của các trường chỉ chiếm xấp xỉ 5% tổng chi hàng năm. Trong khi suất chi trên đầu sinh viên của các cơ sở GDĐH đã là rất thấp và với hiện trạng cơ sở vật chất còn khó khăn như hiện nay. Tỷ lệ chỉ 5% này sẽ khó có thể đáp ứng yêu cầu giữ vững và nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là đối với các cơ sở đào tạo lĩnh vực y dược, khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Trong giai đoạn tới, để thúc đẩy phát triển đội ngũ trí thức cả về lượng và chất phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần thiết phải có Nghị quyết mới cho giai đoạn mới, trong đó Bộ GD&ĐT đề xuất một số định hướng giải pháp chủ chốt:
Thứ nhất: Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, nhất là đối với đào tạo sau đại học, gắn với nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo trong các cơ sở giáo dục đại học.
Thứ hai: Đổi mới cơ chế phân bổ tài chính, tăng cường đầu tư tài chính và nguồn lực cho các cơ sở giáo dục đại học, nâng cao tỉ lệ chi ngân sách nhà nước cho GDĐH trong hoạt động giáo dục và đào tạo nói chung, để ngân sách nhà nước là đầu tầu dẫn dắt đầu tư nguồn lực từ các nguồn khác.