Lá vị chát, tính mát có tác dụng cầm máu, chữa bí tiểu tiện, đắp vết thương.
“Chiết xuất từ cây bần có tác dụng chống oxy hóa, hạ đường huyết và kháng khuẩn. Dịch chua từ trái bần có tác dụng bảo vệ tế bào gan, gây độc đối với ấu trùng muỗi và chống viêm. Chiết xuất từ bần có tác dụng ức chế ung thư vú, ung thư phổi và ung thư biểu mô”, bác sĩ Vũ nói.
Ngoài ra, cây bần còn ức chế enzyme acetylcholinesterase - enzyme làm ngưng hoạt động của chất dẫn truyền thần kinh. Vì vậy vị thuốc này tác dụng ngăn chặn phát triển bệnh Alzheimer (chứng bệnh xảy ra do thoái hóa thần kinh).
Trên thế giới, Ấn Độ sử dụng dịch quả bần lên men để cầm máu và điều trị các chứng bệnh xuất huyết. Người Myanmar dùng trái bần tươi, đem giã nát rồi thêm muối vào và đắp trực tiếp vào vết bầm do máu ứ. Tại Malaysia, lá tươi của cây bần được sử dụng để chữa bí tiểu tiện. Ngoài ra, người dân còn ăn quả bần chín để tiêu diệt ký sinh trùng sống trong sán, giun, bệnh đậu mùa, bệnh thiếu máu tiểu cầu,
Người Philipines sử dụng quả non và lá bần giã nhuyễn để giảm sưng, trị bong gân và cầm máu.
Bác sĩ Vũ lưu ý cần phân biệt với cây bần ổi/bần trứng (Sonneratia ovata Bak) – lLoài thực vật có lá hình bầu dục, vỏ thân tróc thành từng mảng cũng mọc ở những khu rừng ngập mặn nhưng quả vị chua và thơm.
Quả bần vị chua nên tránh ăn khi bụng đói và cần thận trọng khi dùng cho bệnh nhân bị viêm loét dạ dày tá tràng. Cần tránh lạm dụng dược liệu (đặc biệt là quả bần) vì acid trong loại quả này có thể gây đau dạ dày và xót ruột.