Trần Bá Lương (có sách chép họ Nguyễn) đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa thi năm Kỷ Sửu (1499) đời vua Lê Hiến Tông, làm quan đến chức Đông các Hiệu thư.
Ông từng được cử làm Phó chánh sứ sang Trung Quốc. Bài biểu do ông soạn dâng lên vua Minh được Phan Huy Chú tuyển vào bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” phần “Bang giao chí”.
Phạm Gia Mô đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Ất Sửu (1505) đời vua Lê Uy Mục. Ông làm quan hai triều Lê - Mạc, đến chức Thượng thư Lễ bộ, tước Hoành Lễ hầu (triều Lê). Ông kết thông gia với Mạc Đăng Dung và làm quan nhà Mạc, được ban tước cực phẩm Khai phủ Bình chương Quân Quốc trọng sự, Thái sư, Hải quốc công.
Tuy nhiên khi nhà Lê lấy lại ngôi báu, con cháu bi giết hại, phủ đệ Lê Xá bị triệt hạ. Tên ông trong bia Tiến sĩ Văn miếu Quốc Tử Giám bị đục bỏ.
Lê Thời Bật đỗ Đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Giáp Tuất (1514), đời vua Lê Tương Dực. Ông làm quan tới chức Thượng thư, tước Văn Uyên hầu dưới triều Mạc.
Hoàng Thuyên đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa thi năm Mậu Tuất (1538) đời vua Mạc Thái Tông, làm quan tới chức Tham Chính và Hữu Thị lang hai Bộ.
Nguyễn Huệ Trạch đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa thi năm Mậu Tuất (1538) đời vua Mạc Thái Tông, làm quan tới chức Cấp sự trung.
Như vậy, riêng khoa thi năm Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính thứ 9, đời vua Mạc Thái Tông (1538), làng Lê Xá đã đón hai vị tân khoa là Hoàng Thuyên và Nguyễn Huệ Trạch. Đây là sự kiện kiếm không chỉ của Lê Xá, mà của các làng khoa bảng nói chung.
Chuyện ở Văn miếu Xuân La
Khi nhà Lê lấy lại vương quyền đã triệt tiêu phủ đệ Lê Xá của Tiến sĩ Phạm Gia Mô - Thái sư triều Mạc, và đục bỏ tên ông khỏi bia tiến sĩ tại Văn Miếu. Bởi những biến cố đó cùng với tình hình xã hội kéo dài vài trăm năm, ở Lê Xá gần như không còn các vết tích của một thời khoa bảng.
Hiện nay, tại Văn miếu Xuân La (Kiến Thụy) – nơi thờ các vị Tiến sĩ nho học của huyện Nghi Dương xưa đều có tên 9 vị đại khoa Tú Sơn.
Trong bia ký trùng thuật Văn miếu huyện Nghi Dương có ghi, thời hậu Lê, có lần nhà vua vi hành về vùng Nghi Dương của phủ Kinh Môn, thấy sông núi hữu tình nên dừng lại nghỉ chân. Sau khi tuần xét thấy trên đỉnh núi Đối có 5 khối đá dáng hình như thánh tọa, vua cho rằng đây là vùng địa linh nên cho phủ Kinh Môn xây văn miếu.
Văn miếu Xuân La được xây dựng từ thế kỷ thứ 15, cách đây đã hơn 500 năm. Vào thế kỷ 16, nhà Mạc lấy Nghi Dương làm kinh đô thứ 2 (gọi là Dương Kinh). Văn miếu Xuân La được coi là một trường thi lớn của Dương Kinh.
Từ khi có Văn miếu Xuân La, việc học tập ở đất Dương Kinh phát triển mạnh. Người khai khoa của huyện là tiến sĩ Nguyễn Nhân Khiêm. Sau đó, chỉ trong vòng 120 năm (1469 - 1592), huyện Nghi Dương có 12 người đỗ tiến sĩ.
Trong Văn miếu Xuân La, mỗi vị tiến sĩ có một bài vị ghi niên hiệu khoa thi, cấp bậc đỗ đạt và chức tước vua ban, cùng tính danh và quê quán được đặt trên lưng rùa.
Văn miếu Xuân La đã qua nhiều lần trùng tu. Nào năm Gia Long thứ 7 (1808), khi đó đã dựng cây Thạch trụ ghi lại ngày tháng Hội Tư văn ba tổng nam sông Đa Độ lên Văn miếu Thăng Long chép danh sách 14 vị tiến sĩ Nho học của huyện Nghi Dương về khắc vào bia.
Năm 1951, Thực dân Pháp bắn pháo vào Văn miếu làm sập miếu, nhưng 5 pho tượng và 2 bia lớn vẫn đứng vững. Thời kỳ cải cách, các hiện vật dần thất lạc. Năm 1997, người dân đào ao tìm thấy được cây Thạch trụ. Người dân tin rằng, lúc tìm thấy Thạch trụ cũng là thời khắc phá bỏ lời nguyền đá nổi khiến cả làng không ai đỗ.
Từ nhiều năm nay, ngoài lễ thánh và tưởng nhớ các bậc hiền tài được ghi danh trong Văn miếu. Vào ngày 18 tháng Giêng hàng năm, Văn miếu Xuân La là nơi tổ chức lễ tuyên dương học sinh giỏi của huyện, xã và các dòng họ trong làng.