Các nguồn sử liệu đăng khoa lục ghi nhận Trần Bảo Tín là người rất thông minh. Nguyên văn tư liệu của Lê Tung tại Văn miếu Quốc Tử Giám chép rằng: “Trần Bảo Tín 29 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận 3 (1511) đời Lê Tương Dực”.
Khoa thi này, vua đích thân ra bài văn sách hỏi về đạo trị nước xưa nay. Văn bia đề danh còn ghi: “Lòng thánh đế lo xa, đã có sẵn quy hoạch, đối với những người thi đỗ trong bảng này đặc cách ban khen bạt dụng, đều bổ cho giữ các chức ở Hàn lâm viện và các chức khoa đài ở các bộ, ơn huệ rất dày, chế độ rất đủ. Đăng khoa thì có sách chép, đề danh thì có bia là cốt để lưu tiếng thơm trong sử sách, làm rạng rỡ sự nghiệp đến muôn đời”.
Trần Bảo Tín làm quan đến chức Lại bộ Tả thị lang, khi nhà Mạc lấy ngôi nhà Lê, ông ẩn cư ở núi Hành Sơn rồi mất. Nhà Lê trung hưng truy tặng ông chức Thượng thư, phong Phúc thần”.
“Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Năm Tân Mùi - 1511 tháng 3, thi Hội các sĩ nhân trong nước đến thi Đình, vua thân hành xem bài thi rồi định bậc cao thấp. Cho bọn Hoàng Nghĩa Phú, Trần Bảo Tín, Vũ Duy Chu 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ”.
Về hành trạng của Bảng nhãn Trần Bảo Tín, một số nguồn sử liệu khác ghi rằng, ông là người mẫn cán, trung thực, thẳng thắn. Năm 1527 nhà Mạc chiếm ngôi vua Lê, ông bất hợp tác với nhà Mạc nên bỏ kinh thành về quê ở ẩn.
Tại đây ông lập chiến lũy không cho nhà Mạc mở rộng biên ải xuống phía Nam, tránh được nạn phu phen tạp dịch, nhân dân được sống yên bình.
Để tránh đói nghèo, Trần Bảo Tín cùng với dân địa phương lập trang trại khai khẩn ruộng hoang, đắp đường mở chợ buôn bán, mở trường dạy học, mở nơi chữa bệnh.
Mộ và đền thờ Bảng nhãn Trần Bảo Tín trên núi Hồng Lĩnh (ảnh Ban Văn hóa thị trấn Xuân An). |
Con cháu Bảng nhãn Trần Bảo Tín sau này nhiều người trở thành các nhà khoa bảng, tướng quân được phong tước, phong hầu, như: Trần Văn Đức, Văn Bân, Công Vinh, Công Hoa…
Khi Trần Bảo Tín qua đời dân làng đã an táng và lập đền thờ ông tại núi Hồng Lĩnh, phong ông là Thành hoàng làng, các triều vua cũng phong ông là “Bảo quốc Trung trinh Đại phu bộ Lại Thượng thư Trần tướng công”.
Tương truyền nơi đặt mộ Trần Bảo Tín là một huyệt đất thiêng hiếm có. Sách “Đại Nam thực lục” chép về Lận Sơn trong cuộc chiến năm 1660, quân hai nhà Trịnh - Nguyễn đánh nhau: “Trịnh Căn (chúa) họp các tướng để hỏi chước. Trần Công Bách đáp rằng: Lận Sơn là nơi tất phải tranh lấy. Hễ chiếm được Lận Sơn trước thì thắng…”.
Tại di tích Bảng nhãn Trần Bảo Tín, trong đền trước đây còn có bài thờ Hán tự đặt trên thượng điện, được lưu truyền và sử sách ghi chép: Cù Sơn hữu nhất huyệt/ Tiền di Lam giang vi án/ Hậu hữu Nga mi vi chẩn/ Long hổ hữu tinh, quần sơn vọng bái.
Còn tại Thần Đầu, để tỏ lòng biết ơn và ghi tạc sự đóng góp của Bảng nhãn Lê Quảng Chí và người em - Tiến sĩ Lê Quảng Ý, người dân khu vực phía Nam Hà Tĩnh đã truyền tụng về hai hòn núi Đụn đứng song song ở làng Thần Đầu, một hòn cao - một hòn thấp chính là hòn anh, hòn em giống ngòi bút đang viết.
Vì lẽ đó dân gian ở vùng này đã gọi hai hòn núi ấy là: “Nguy nga song bút”. Đằng sau hai hòn núi đó là hòn Cụp Chiêng, Cụp Cờ đứng thẳng hàng như đón tiếp hai nhà khoa bảng đất Thần Đầu.
Bảng nhãn Lê Quảng Chí mất ở tuổi 82, được truy tặng Thượng thư. Dân làng đặt mộ ông dưới chân núi Hoành Sơn, lập đền thờ ở Thần Đầu, gọi là đền thờ hai ông Thánh Trạng.
Ngoài ra, còn có hai nơi thờ riêng hai vị: “Lãm Sơn tiên sinh từ” thờ Lê Quảng Chí, “Bảng Quận công từ” thờ Lê Quảng Ý. Đời Tự Đức, sứ Trung Hoa là Lao Sùng Quang qua đây có đề hai câu: “Thùy gia hảo huynh đệ/ Song miếu uất tinh linh” (Anh em danh tiếng một nhà/ Tinh linh hai miếu sáng lòa nghìn thu).
Khoảng năm 1875, quân đội triều đình nhà Nguyễn ra dẹp cuộc khởi nghĩa của quân Cờ Vàng đã đốt cháy mấy ngôi đền này. Đến năm Tự Đức thứ 36 (1883), nhân dân mới xây dựng lại. Năm Tân Tỵ đời Bảo Đại (1941) làng Thần Đầu lại tu sửa thêm.
Hiện nay, mộ hai anh em nhà khoa bảng Lê Quảng Chí vẫn còn, toạ gần đường Quốc lộ 1A. Xưa có câu đối ngợi ca hai ông: Nhất ngôn khoa giáp nam huynh đệ/ Song miếu anh linh tự cổ kim (Khoa giáp một nhà, ai bác chú/ Anh linh hai miếu tự xưa nay).
Đền thờ và mộ Lê Quảng Chí - Lê Quảng Ý được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào năm 1996.
Theo tư liệu lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, khoa Mậu Tuất (1478) đời Lê Thánh Tông: Hoàng thượng dụ bảo danh hiệu cao nhất sĩ tử không đạt tới. Cho nên khoa này về hàng Tiến sĩ cập đệ không có đệ nhất danh, chỉ ban cho Lê Quảng Chí đỗ Đệ nhị danh, bọn Trần Bích Hoành, Lê Ninh đỗ Đệ tam danh. Còn khoa Tân Mùi (1511) đời Lê Tương Dực: Hoàng thượng đích thân xem xét, định thứ bậc cao thấp, lấy bọn Hoàng Nghĩa Phú (Trạng nguyên), Trần Bảo Tín (Bảng nhãn), Vũ Duy Chu (Thám hoa).