Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị (Nghị quyết 71) đặt ra yêu cầu đổi mới mạnh mẽ thể chế, tạo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt giáo dục đại học.
Kinh nghiệm hơn 15 năm giảng dạy đại học, ThS Nguyễn Thị Xuân Mai - Trường Đại học An Giang (Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) nhận định, quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết 71 đã bao quát và định vị đúng đắn vai trò, chiến lược của giáo dục. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất nằm ở khâu thực thi đồng bộ, đặc biệt trong việc gắn kết giữa “học với hành” và huy động nguồn lực xã hội một cách bền vững.
Khẳng định những đổi mới căn bản về cơ chế và chính sách tài chính trong Nghị quyết là bước đột phá cần thiết, theo ThS Nguyễn Thị Xuân Mai, việc phân bổ ngân sách dựa trên sứ mạng, chất lượng, hiệu quả thay vì phân bổ bình quân như trước sẽ khuyến khích các trường nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đặc biệt, cam kết dành tối thiểu 20% ngân sách Nhà nước cho giáo dục, trong đó ưu tiên đầu tư cho đại học, cho thấy quyết tâm chiến lược. Tuy nhiên, cần cơ chế giám sát chặt chẽ, minh bạch để nguồn lực thực sự đến đúng nơi, phát huy hiệu quả lâu dài.
Tương tự, ThS Huỳnh Ngọc Thái Anh - Trường Công nghệ Thông tin và Truyền thông (Đại học Cần Thơ) cho rằng, các mục tiêu và tầm nhìn trong Nghị quyết 71 là một động lực rất mạnh cho các cơ sở giáo dục đại học trong thu hút nhân tài, thúc đẩy nghiên cứu.
Cụ thể, Nghị quyết giữ mức chi ngân sách cao cho giáo dục, có phần riêng cho đại học và chuyển dần sang cơ chế đặt hàng theo kết quả đầu ra; có không gian cho hợp tác công - tư, quỹ tài trợ, vốn tín dụng ưu đãi. Điều này không chỉ nâng chất lượng và số lượng nghiên cứu trong nước, mà còn giúp thu hút nhân tài.
Nhận định Nghị quyết 71 có ý nghĩa hết sức quan trọng, định hướng chiến lược cho sự phát triển của giáo dục Việt Nam thời gian tới, TS Lê Hồ Sơn - Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm (Đại học Huế) làm rõ những vấn đề lớn đặt ra trong Nghị quyết.
Thứ nhất, yêu cầu phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ và thực hiện nhất quán quan điểm giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc, đặt vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước. Đây là quyết tâm chính trị mạnh mẽ nhằm tạo ra những bước đột phá chứ không chỉ dừng lại ở đổi mới.
Thứ hai, Nghị quyết đề ra mục tiêu rõ ràng với các mốc thời gian cụ thể đến năm 2030, 2035 và tầm nhìn 2045. Nội dung của Nghị quyết bao quát từ phổ cập mầm non, THCS, THPT cho tới xây dựng các đại học đạt chuẩn quốc tế, trở thành trung tâm nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, Nghị quyết yêu cầu đột phá về thể chế và quản trị. Các trường đại học được trao quyền tự chủ lớn hơn; đặc biệt trong tuyển dụng, bổ nhiệm, tổ chức bộ máy. Đồng thời, hệ thống giáo dục được sắp xếp lại, tinh gọn, kiên quyết giải thể các đơn vị yếu kém.
Bên cạnh đó, Nghị quyết nhấn mạnh ưu tiên nguồn lực cho giáo dục. Ngân sách Nhà nước dành cho lĩnh vực này sẽ được nâng cao, với các chỉ tiêu cụ thể. Cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, trung tâm đào tạo - nghiên cứu được đầu tư mạnh mẽ. Nghị quyết đồng thời mở rộng tầm nhìn quốc tế, hướng đến việc đưa hệ thống giáo dục Việt Nam nằm trong nhóm 20 quốc gia hàng đầu vào năm 2045. Các trường đại học được kỳ vọng nâng thứ hạng trên bảng xếp hạng quốc tế, thu hút giảng viên giỏi từ nước ngoài, thúc đẩy công bố và sáng chế khoa học.
“Nghị quyết 71 thể hiện quyết tâm nâng tầm giáo dục đại học Việt Nam ngang hàng với khu vực và thế giới”. Nhấn mạnh điều này, bà Nguyễn Thị Việt Nga - Ủy viên Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, làm rõ: Bộ Chính trị chỉ đạo khẩn trương xây dựng khung chiến lược phát triển giáo dục đại học, trong đó nhấn mạnh việc ban hành cơ chế đặc thù, vượt trội, cũng như đầu tư phát triển 3 - 5 đại học tinh hoa theo mô hình nghiên cứu đẳng cấp quốc tế, hướng tới đào tạo nhân tài quốc gia.
Trong bối cảnh nguồn lực hạn chế, việc tập trung đầu tư xây dựng những “đầu tàu” để kéo cả hệ thống cùng phát triển là hướng đi đúng đắn và khả thi. Các đại học tinh hoa sẽ được lựa chọn theo tiêu chí minh bạch như năng lực đào tạo, đội ngũ giảng viên trình độ cao, cơ sở vật chất hiện đại, môi trường học thuật quốc tế và khả năng nghiên cứu. Khi hội tụ đủ các điều kiện, những trường này không chỉ đào tạo nguồn nhân lực đỉnh cao, mà còn giữ vai trò dẫn dắt đổi mới, chuyển giao công nghệ, kết nối với các trường hàng đầu thế giới.
Để phát triển thành công, bà Nguyễn Thị Việt Nga cho rằng, cần hai yếu tố: Cơ chế đặc thù về tài chính, tự chủ và nhân tài; đồng thời tránh để xảy ra phân hóa quá lớn, khiến khoảng cách giữa các trường tinh hoa và trường khác ngày càng xa.
TS Lê Hồ Sơn cũng quan tâm đến điều kiện nguồn lực đầu tư lớn về tài chính, cơ sở vật chất, nhân lực chất lượng cao. Việc đảm bảo đủ và đúng nguồn lực để thực hiện có thể là thách thức lớn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế còn khó khăn.
Bên cạnh đó, mặc dù Nghị quyết 71 nhấn mạnh chất lượng, nhưng hệ thống đánh giá và kiểm định chất lượng hiện tại vẫn còn một số hạn chế, chưa thực sự phát huy hết hiệu quả để thúc đẩy chất lượng thực chất. Ngoài ra còn có vấn đề tương quan giữa tự chủ và quản lý Nhà nước. Việc đẩy mạnh tự chủ cho các trường đại học là xu thế phù hợp, nhưng cần có cơ chế giám sát hiệu quả để tránh tình trạng lạm dụng tự chủ hoặc tự chủ không đi đôi với trách nhiệm giải trình.
Để Nghị quyết 71 phát huy hiệu quả trong thực tiễn, ThS Huỳnh Ngọc Thái Anh đề xuất, các cơ quan, ban, ngành địa phương cần xây dựng một tuyến hỗ trợ liền mạch, để kết quả nghiên cứu dễ dàng đi vào thị trường. Hỗ trợ toàn diện này bao gồm: Tư vấn sở hữu trí tuệ, quỹ thử nghiệm, cơ chế thử nghiệm (sandbox) pháp lý cho công nghệ mới, cùng với những chương trình vườn ươm, tăng tốc nội bộ, và các gói đặt hàng từ địa phương, doanh nghiệp.
“Khi chuẩn mực rõ ràng và thống nhất, mục tiêu nâng chất lượng nghiên cứu, phát triển nhân lực trình độ cao và tăng năng lực đổi mới sáng tạo sẽ khả thi và bền vững hơn”, ThS Thái Anh nhấn mạnh.
Nói riêng về đào tạo ngành Khoa học sức khỏe, GS.TS Nguyễn Vũ Quốc Huy - Hiệu trưởng Trường Đại học Y - Dược (Đại học Huế) cho rằng, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các cơ chế chính sách ưu đãi đặc thù và cơ chế đặt hàng trong đào tạo nhân lực y tế, đặc biệt là nhân lực y tế phục vụ y tế cơ sở, y tế dự phòng, y tế công cộng, vùng sâu, xa, biên giới, biển đảo.
Cùng với đó, đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo hướng tích hợp dựa trên năng lực; đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và phương pháp đánh giá… Đặc biệt, đổi mới chương trình theo hướng tăng cường công tác đào tạo về y đức, ý thức trách nhiệm, pháp luật trong hành nghề y dược, quy tắc ứng xử, và kỹ năng giao tiếp. Chú trọng phát triển giảng viên qua bồi dưỡng và đào tạo liên tục cho đội ngũ này.
Cũng theo Hiệu trưởng Trường Đại học Y - Dược, cần có cơ chế để tăng cường phối hợp giữa cơ sở giáo dục đại học với cơ sở giáo dục nghề nghiệp nhằm tăng cường tính liên thông trong chuẩn đầu ra, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời cho người học và nhu cầu nhân lực y tế của xã hội.
Có cơ chế và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển cơ sở thực hành của các cơ sở đào tạo theo nguyên lý Trường - Viện, đáp ứng yêu cầu đào tạo thực hành. Tăng cường đầu tư mở rộng không gian phát triển cho các cơ sở giáo dục khối ngành sức khỏe, đáp ứng chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục đại học; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị để phát triển, nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nhân lực y tế trọng điểm.
“Với các mục tiêu cụ thể, bao quát, thực hiện trước mắt và tầm nhìn lâu dài, Nghị quyết 71 thể hiện quyết tâm cao nhằm đưa nền Giáo dục Việt Nam phát triển vượt bậc, sánh ngang với các nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và thế giới. Là một nhà giáo, tôi vô cùng phấn khởi khi Nghị quyết 71 được ban hành. Đây là động lực to lớn để đội ngũ nhà giáo phấn đấu hơn nữa, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra, xứng đáng với sự kỳ vọng của toàn xã hội”. - ThS Trương Chí Hùng - Trường Đại học An Giang (Đại học Quốc gia TPHCM)