Từ những điểm trường cheo leo trên sườn núi đến lớp học nơi đồng bằng, làn sóng chuyển đổi số đang len lỏi vào từng tiết dạy.
Kho học liệu số, giáo án mẫu, bài giảng điện tử trở thành “người bạn đồng hành”, giúp giáo viên miền núi vượt qua thiếu thốn, mang đến những tiết học công bằng và sinh động hơn cho học trò.
Đây không chỉ là lời giải cho bài toán thiếu tài nguyên dạy học, mà còn là minh chứng cho sức mạnh cộng đồng, để không một giáo viên miền núi nào bị bỏ lại phía sau.
Sau sáp nhập, quy mô giáo dục tại Phú Thọ và Tuyên Quang tăng lên đáng kể. Phú Thọ hiện có 1.957 cơ sở giáo dục với gần 969 nghìn học sinh và hơn 60.000 cán bộ, giáo viên, nhân viên, song vẫn thiếu tới 2.473 biên chế. Tuyên Quang có 1.054 trường, 493.707 học sinh, trong đó học sinh dân tộc thiểu số chiếm 78%, với hơn 1.803 điểm trường lẻ.
Trong bức tranh đầy thách thức ấy, chuyển đổi số và đặc biệt là cổng thư viện học liệu mở đang trở thành giải pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục. Tại đây, giáo viên có thể truy cập giáo án mẫu, bài giảng điện tử, video, tài liệu tham khảo… để áp dụng trực tiếp vào bài dạy. Thay vì mỗi người phải tự mày mò soạn giảng, giờ đây mọi thứ đã được cộng đồng chung tay xây dựng và chia sẻ.
Cô Đinh Thị Bích Liên, giáo viên Tiếng Anh tại THCS Long Cốc (Phú Thọ), cho biết: “Tôi tham gia nhóm Zalo Tiếng Anh tỉnh Phú Thọ với 703 thành viên. Mỗi ngày có hàng chục tài liệu dạy học được chia sẻ, từ đề thi đến phương pháp giảng dạy mới. Nhờ vậy, tôi tiết kiệm được thời gian chuẩn bị và có thêm nhiều ý tưởng sinh động cho tiết học”.
Ở bậc mầm non, mô hình “cổng học liệu số” cũng được áp dụng sáng tạo. Tại xã Thuận Hòa, một xã vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Tuyên Quang, nơi trẻ em dân tộc thiểu số chiếm tới 96,5%, Trường Mầm non Hướng Dương đã mạnh dạn xây dựng kho học liệu dùng chung trên nền tảng Padlet.
Cô Trần Thị Vụ, Hiệu trưởng nhà trường, kể: “Ban đầu, giáo viên còn lúng túng, không biết cách tải giáo án, học liệu hay video lên hệ thống. Nhưng sau một thời gian, mọi người thấy rõ tiện ích. Thay vì chuẩn bị đồ dùng thủ công mất hàng giờ, giờ chỉ cần mở kho là có đủ tài liệu, từ giáo án STEAM, giáo án minh họa, sách lật, truyện thơ cho đến văn bản chỉ đạo”.
Các cô giáo phản hồi rất tích cực, nguồn học liệu phong phú giúp tiết kiệm thời gian, đồng thời mở ra nhiều ý tưởng mới để lồng ghép công nghệ vào tiết học. Trẻ em cũng tỏ ra hứng thú, say mê hơn với những giờ học có hình ảnh, âm thanh sinh động.
Dù vậy, quá trình thực hiện vẫn còn những hạn chế. Nhiều tính năng của Padlet chưa được khai thác, giáo viên chưa nắm vững kỹ năng số, cơ sở vật chất còn thiếu, đường truyền Internet không ổn định. Nhà trường vẫn đang trong quá trình hoàn thiện kho học liệu, đồng thời khuyến khích mỗi giáo viên trở thành “hạt nhân công nghệ” để lan tỏa cách làm mới.
Cô Vụ bày tỏ: “Nếu có thêm phòng học trực tuyến, máy tính, thiết bị kết nối Internet, cùng với các lớp tập huấn về CNTT, chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn. Chúng tôi mong các cấp quan tâm, hỗ trợ, để mỗi giáo viên vùng khó có thể chủ động tham gia và làm chủ công nghệ”.
Nếu ở bậc mầm non, Padlet trở thành chiếc “cổng học liệu xã” thì ở bậc THPT, việc chia sẻ và vận dụng học liệu được tổ chức bài bản thông qua cụm sinh hoạt chuyên môn. Bà Trịnh Thị Thanh Thủy, Hiệu trưởng Trường THPT Tân Trào (Tuyên Quang), cho biết: Từ khi sáp nhập tỉnh, phạm vi quản lý của Sở GD&ĐT mở rộng, số lượng trường tăng mạnh. Để hỗ trợ giáo viên, Sở đã quyết định thành lập các cụm sinh hoạt chuyên môn, vừa trực tiếp vừa trực tuyến.
“Dù họp trực tiếp hay qua mạng, chúng tôi đều chú trọng đến việc xây dựng, chia sẻ tài liệu, học liệu. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong cụm”, bà Thủy nhấn mạnh.
Theo bà Trịnh Thị Thanh Thủy, những tài liệu này được xây dựng trên khung chương trình của Bộ GD&ĐT, nhưng linh hoạt điều chỉnh theo từng loại hình trường, từng vùng miền. Ngay trong cùng một trường, việc áp dụng cũng khác nhau. Ví dụ tại THPT Tân Trào, cùng một tài liệu, giáo viên sẽ phân loại đối tượng, học sinh chưa đạt thì dạy ở mức 1 - 2; đạt thì ở mức 3; khá và tốt thì hướng đến mức 4. Nhờ vậy, tài liệu chung được “cá nhân hóa” phù hợp với từng lớp, từng học sinh.
“Muốn đạt hiệu quả, các trường phải chủ động vận dụng học liệu sao cho sát thực tế của đơn vị mình. Không thể dạy tất cả theo một khuôn mẫu, mà phải linh hoạt, phân hóa”, bà Thủy chia sẻ thêm.
Không chỉ ở mầm non hay THPT, mô hình chia sẻ trực tuyến còn nở rộ ở các cấp học khác. Thầy Cao Bá Hà, giáo viên Toán tại Trường THCS Long Cốc, hiện tham gia nhóm Toán Phú Thọ mới (602 thành viên), nhóm Phú Thọ cũ (622 thành viên) và nhóm Toán Tân Sơn (57 thành viên).
Thầy Hà chia sẻ: “Trong nhóm, chúng tôi trao đổi từ kế hoạch giáo dục, đề kiểm tra đến cách ứng dụng công nghệ trong dạy học. Có hôm chỉ một bài toán, hàng chục ý kiến góp ý, giúp tôi học hỏi thêm rất nhiều để áp dụng cho học sinh”.
Chính những nhóm nhỏ này là “hạt nhân” góp phần làm nên một cổng thư viện học liệu mở quy mô lớn. Từ bản giáo án soạn vội, bài giảng PowerPoint chỉnh sửa lúc nửa đêm, đến những video bài dạy công phu… tất cả đều góp phần nuôi dưỡng kho tài nguyên chung.
Năm học 2025 - 2026, cả Phú Thọ và Tuyên Quang đều đặt chuyển đổi số là trọng tâm. Phú Thọ phấn đấu 100% giáo viên ứng dụng CNTT thành thạo, xây dựng nền tảng giáo dục thông minh. Tuyên Quang đã triển khai học bạ số, chữ ký số cho giáo viên, gần 160 trường phổ thông có phòng học trực tuyến.
Điều quan trọng hơn cả là sự hình thành của một cổng thư viện học liệu mở, nơi giáo viên từ xã nghèo, trường lẻ hay trường trung tâm đều có thể tiếp cận nguồn tài nguyên chung. Ở đó, những hạn chế về cơ sở vật chất phần nào được bù đắp bằng sức mạnh của công nghệ, tinh thần cộng đồng và sự sáng tạo của thầy cô. Đây cũng là minh chứng cho hiệu quả của Phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021 - 2025 trong giáo dục miền núi.