Sinh viên quốc tế học đại học tại Nhật Bản. |
Tương tự Hàn Quốc, Bộ Giáo dục Nhật Bản dự đoán số lượng sinh viên vào đại học ở Nhật Bản năm 2050 là khoảng 490 nghìn người, ít hơn 130 nghìn người so với năm 2022.
Tuyển sinh giảm ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý của các trường đại học. Trong đó, các cơ sở giáo dục tư nhân bị ảnh hưởng đặc biệt nặng nề vì học phí và lệ phí tuyển sinh chiếm tới 70% thu nhập của họ.
Hiện nay, một nửa trong số khoảng 600 trường đại học không hoạt động hết công suất và 1/3 trường nằm trong diện “đỏ”, tức có nguy cơ đóng cửa hoặc sáp nhập. Nhiều trường đã tính đến phương án đóng cửa vì tình hình hoạt động không khả quan.
Con số trên cảnh báo các trường đại học có thể phải đóng cửa nếu không thể lấp đầy chỉ tiêu bằng cách thu hút sinh viên nước ngoài, nhất là từ các nước châu Á. Chính phủ Nhật Bản mới đây đã đặt mục tiêu thu hút 400 nghìn sinh viên nước ngoài đến Nhật Bản và 500 nghìn sinh viên Nhật Bản ra nước ngoài vào năm 2033.
Kế hoạch trên nhằm nâng cao chất lượng quốc tế hóa trong lĩnh vực giáo dục đại học, đồng thời, hỗ trợ các trường đại học nâng cao chỉ tiêu tuyển sinh, duy trì hoạt động.
Thu hút sinh viên quốc tế không chỉ giúp giải quyết bài toán suy giảm dân số cho các quốc gia Đông Á mà còn mang lại lợi ích kinh tế. Chưa kể, các nghiên cứu cho thấy sinh viên quốc tế nâng cao tính đa dạng trong môi trường học thuật và nghiên cứu khoa học.
Sinh viên quốc tế cũng mang lại màu sắc, văn hóa, tư tưởng mới, từ đó, xây dựng các góc nhìn độc đáo, tăng cường hiểu biết toàn cầu cho các cá nhân chưa được tiếp xúc với các xã hội hay quan điểm khác nhau.
Điều này dẫn đến tư duy cởi mở hơn và giúp người dân của quốc gia sở tại nâng cao kiến thức, nhận thức về các nền văn hóa; từ đó, kích thích sự trao đổi và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, việc thu hút sinh viên quốc tế cũng đối mặt với nhiều vấn đề. Đầu tiên, có thể thấy để thu hút sinh viên quốc tế, Nhật Bản và Hàn Quốc đã nới lỏng các quy định khá chặt chẽ về điều kiện nhập cảnh và du học. Trong đó, Hàn Quốc tạo điều kiện cho sinh viên quốc tế thi lấy chứng chỉ tiếng Hàn dễ dàng hơn.
Như vậy, nhiều sinh viên quốc tế có thể chưa đạt đủ khả năng tiếng Hàn hoặc tiếng Anh để giao tiếp cơ bản hoặc học tập tại các cơ sở giáo dục Hàn Quốc. Chưa kể, sinh viên quốc tế được tăng thời gian làm thêm nên có thể chểnh mảng học tập. Điều đó khiến nhiều chuyên gia lo ngại về khả năng chất lượng giáo dục sẽ suy giảm.
Chưa kể, sinh viên quốc tế sẽ cạnh tranh cao với sinh viên trong nước khiến cơ hội vào đại học của sinh viên trong nước thấp hơn. Sinh viên trong nước cũng có thể không được hưởng học bổng, chính sách ưu đãi hay trang thiết bị, cơ sở vật chất tương đương với sinh viên quốc tế nếu du học sinh đóng học phí cao hơn. Đây là tình trạng đã xảy ra ở những quốc gia phát triển giáo dục quốc tế như Mỹ, Anh...
Trong các quốc gia phát triển ở Đông Á, chỉ Trung Quốc đang ở vị trí thuận lợi về mặt nhân khẩu học. Nước này chưa rơi vào tình trạng tỷ lệ sinh giảm như Nhật Bản hay Hàn Quốc. Tuy nhiên, nhiều khả năng trong tương lai, Trung Quốc sẽ đối diện với nguy cơ trên vì nhiều người trẻ có xu hướng ngại kết hôn, ngại sinh con hoặc chỉ sinh một con.