Trọng tâm của cải cách không chỉ là đổi mới chương trình đào tạo hay phương pháp giảng dạy, mà là tái cấu trúc hệ thống và mô hình quản trị đại học...
Theo ông Lê Viết Khuyến - nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT), Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, trọng tâm của cải cách không chỉ là đổi mới chương trình đào tạo hay phương pháp giảng dạy, mà là tái cấu trúc hệ thống và mô hình quản trị đại học, trong đó mô hình đại học đa lĩnh vực đóng vai trò then chốt.
- Ông nhìn nhận thế nào về giáo dục đại học trong những thập niên vừa qua?
- Trong ba thập niên qua, giáo dục đại học Việt Nam có bước phát triển vượt bậc về quy mô, mạng lưới và đa dạng hóa loại hình. Tuy nhiên, những tiến bộ về số lượng chưa đi kèm với cải cách cơ bản về cấu trúc hệ thống và mô hình quản trị đại học. Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đại học trở thành đòi hỏi cấp thiết.
Tôi cho rằng, trọng tâm của cải cách không chỉ là đổi mới chương trình đào tạo hay phương pháp giảng dạy, mà chính là tái cấu trúc hệ thống và mô hình quản trị đại học, trong đó mô hình đại học đa lĩnh vực đóng vai trò then chốt.
Khái niệm “university (đại học)” trên thế giới từ lâu đã hàm chứa đặc trưng đa ngành, đa lĩnh vực, nơi kết nối khoa học tự nhiên, kỹ thuật - công nghệ, nông nghiệp, khoa học xã hội - nhân văn, kinh tế, y học, giáo dục và nghệ thuật trong một chỉnh thể thống nhất.
Từ đó, hình thành môi trường học thuật có khả năng phát triển tri thức liên ngành, giải quyết các vấn đề phức hợp của xã hội và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Ngược lại, hệ thống đại học Việt Nam, vốn là sản phẩm kế thừa của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, vẫn bị phân mảnh thành hàng trăm trường chuyên ngành quy mô nhỏ, với năng lực học thuật, nghiên cứu và phục vụ phát triển chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.
Đảng và Nhà nước đã từng bước nhận ra hạn chế này, thể hiện qua nhiều nghị quyết trước đây, đặc biệt qua các Nghị quyết 19-NQ/TW năm 2017 và Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo; trong đó có đổi tổ chức hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, tiến trình triển khai dường như còn thiếu định hướng rõ ràng về mô hình đại học tương lai mà Việt Nam cần hướng đến.
Câu hỏi đặt ra, phát triển các đại học đa lĩnh vực cần thiết nhưng chúng ta cần lựa chọn mô hình nào? Theo mô hình chỉnh thể thống nhất (hay còn gọi là mô hình đại học tích hợp) như các đại học nghiên cứu hàng đầu thế giới, hay theo mô hình liên hiệp các trường chuyên ngành?
- Theo ông, chúng ta nên hiểu về đại học đa lĩnh vực thế nào cho đúng?
- Đại học đa lĩnh vực là định chế giáo dục đại học có năng lực đào tạo và nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khoa học - công nghệ - xã hội - nhân văn… Trong đó, có sự hiện diện và phối hợp giữa khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng, khoa học xã hội - nhân văn, nghệ thuật và các ngành nghề chuyên sâu khác.
Mô hình này vượt qua giới hạn của các trường đại học chuyên ngành truyền thống, cho phép tích hợp tri thức liên ngành, đổi mới học thuật và đáp ứng linh hoạt nhu cầu nhân lực trong một xã hội tri thức,
Hiện có hai mô hình đại học đa lĩnh vực chủ yếu. Thứ nhất, mô hình đại học tích hợp: Các đơn vị thành phần (trường, khoa, viện, trung tâm) nằm dưới một cấu trúc tổ chức thống nhất, có chung hệ thống quản trị, chiến lược phát triển và cơ chế phân bổ nguồn lực.
Đây là mô hình phổ biến ở châu Âu, Bắc Mỹ và nhiều đại học nghiên cứu lớn tại Đông Á như: Đại học Tokyo (Nhật Bản) hay Đại học Quốc gia Seoul (Hàn Quốc), Đại học Quốc gia Singapore...
Mô hình này tạo điều kiện cho quản trị tập trung, phát triển học thuật liên ngành và tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực, đồng thời cho phép khai thác sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống, trong điều kiện nguồn lực đầu tư còn hạn hẹp.
Thứ hai, mô hình đại học liên hiệp, gồm nhiều trường đại học chuyên ngành độc lập về tổ chức nhưng liên kết dưới một hệ thống thông qua cơ quan điều phối trung tâm. Mỗi trường thành viên có thể giữ thương hiệu, quản trị và chương trình riêng, nhưng chia sẻ tài nguyên và được định hướng chung bởi hội đồng cấp hệ thống.
Mô hình này tồn tại ở hệ thống University of California (UC - Hoa Kỳ), hay Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU), Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh cũng như các đại học vùng. Điều khác biệt mà ít người nói tới khi cần so sánh, biện minh là, trong khi UC là một hệ thống các đại học đa lĩnh vực hoàn chỉnh thì VNU lại là liên hiệp các trường đại học chuyên ngành.
Tại Việt Nam, các đại học đa lĩnh vực công lập hiện diện dưới nhiều hình thức chưa thống nhất. Một số được hình thành từ quá trình mở rộng ngành nghề của các trường chuyên ngành truyền thống như: Đại học Bách khoa, Đại học Kinh tế Quốc dân, Trường Đại học Vinh… Số khác hình thành từ việc sáp nhập cơ học (nhưng không được tổ chức lại) các trường chuyên ngành nhỏ, tạo ra “hệ thống” đại học mà bản chất vẫn là liên kết lỏng lẻo giữa các trường chuyên ngành.
Khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhu cầu về những đại học có khả năng đổi mới sáng tạo, nghiên cứu liên ngành và đào tạo đa dạng tăng mạnh. Tuy nhiên, sự thiếu rõ ràng về mô hình tổ chức và thể chế quản trị, khiến quá trình phát triển đại học đa lĩnh vực gặp nhiều rào cản.
- Vậy theo ông, một đại học đa lĩnh vực hiện đại cần bảo đảm những nguyên tắc nào?
- Tôi cho rằng, cần bảo đảm những nguyên tắc như: Thứ nhất, tính thống nhất trong đa dạng. Tức là, có bộ máy quản trị thống nhất, trong khi các đơn vị chuyên môn được phân quyền học thuật cao.
Thứ hai, cấu trúc theo lĩnh vực rộng (broad fields): Tránh phân mảnh theo ngành hẹp. Các college/ faculty/ school nên được tổ chức theo lĩnh vực như: Kỹ thuật - công nghệ, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn, y - dược, quản trị - kinh tế…
Thứ ba, có sự hiện diện bắt buộc của khoa học cơ bản, để tạo nền tảng học thuật, thúc đẩy nghiên cứu liên ngành và bảo đảm tính “đại học” đích thực.
Thứ tư, hội đồng đại học và hội đồng học thuật có vai trò thực chất, bảo đảm tính tự chủ và đồng quản trị.
Thứ năm, phân tầng đào tạo - nghiên cứu rõ ràng: Từ đại trà đến tinh hoa, từ đào tạo đại học đến nghiên cứu sau tiến sĩ.
Ngoài ra, một đại học đa lĩnh vực hiện đại thường tổ chức thành ba tầng học thuật chính, có thể mô tả như sau: Tầng Một là đơn vị học thuật cấp lĩnh vực (College/ Faculty/ School) có chức năng quản lý các chương trình đào tạo, chiến lược học thuật, ngân sách, nhân sự trong một lĩnh vực rộng (broad field).
Ví dụ: Kỹ thuật & Công nghệ, Khoa học Xã hội & Nhân văn, Y - Dược… Các đơn vị này có quyền đề xuất chính sách học thuật, bổ nhiệm chức danh học thuật, phân phối ngân sách nội bộ, phát triển ngành/ chuyên ngành mới; Đơn vị này thường được tổ chức thành nhiều trường (school) hoặc khoa/ bộ môn (department) trực thuộc.
Tầng Hai là đơn vị đào tạo chuyên ngành, có chức năng phụ trách một hoặc một nhóm ngành đào tạo cụ thể; với vai trò như: Triển khai chương trình đào tạo, quản lý giảng viên, giám sát chất lượng học thuật, xây dựng định hướng nghiên cứu. Trong một số mô hình như Anh, đơn vị đào tạo có thể nằm trực tiếp dưới University; trong các mô hình khác như: Mỹ, Singapore, đơn vị này thường nằm trong đơn vị học thuật cấp lĩnh vực (College).
Tầng Ba là đơn vị học thuật cơ sở (Department) có chức năng tổ chức giảng dạy các môn học cụ thể, thường theo từng ngành chuyên môn; phát triển học thuật chuyên sâu, định hướng nghiên cứu cho từng nhóm ngành nhỏ hoặc mảng học thuật. Đơn vị học thuật cơ sở là “tế bào” chuyên môn nền tảng, bảo đảm chiều sâu chuyên môn và hỗ trợ phát triển đội ngũ học thuật.
- Ông có đề xuất gì về cơ chế vận hành và phân quyền quản trị trong đại học đa lĩnh vực?
- Trong mô hình đại học đa lĩnh vực hiện đại, cơ quan trung tâm của đại học (gọi là “University Central”) đóng vai trò hoạch định chiến lược, phân bổ ngân sách, đảm bảo chất lượng, và quản trị toàn hệ thống. Các trường thành viên được phân quyền sâu rộng về chuyên môn, bao gồm thiết kế chương trình, tổ chức tuyển sinh, bổ nhiệm giảng viên, phát triển nghiên cứu và kết nối với ngành nghề.
Chẳng hạn, Đại học Melbourne tổ chức thành các lĩnh vực lớn như: Khoa học, Y, Luật, Kinh tế… được trao quyền học thuật đầy đủ, song vẫn tuân thủ chiến lược chung do hội đồng đại học đề ra. Mô hình này giúp đại học có tầm nhìn chiến lược thống nhất, nhưng đảm bảo tính năng động từng lĩnh vực.
Về cơ chế điều phối và phối hợp liên lĩnh vực, sự đa dạng lĩnh vực tạo ra nhu cầu cao về phối hợp học thuật và nghiên cứu. Các đại học tiên tiến thiết lập cơ chế phối hợp qua các viện liên ngành, trung tâm nghiên cứu chung, hoặc các nhiệm vụ chiến lược liên lĩnh vực. Ban điều phối học thuật cấp trung tâm đại học đóng vai trò then chốt.
Cần quan tâm đến cơ chế ra quyết định, trong đó nhấn mạnh vai trò của hội đồng đại học và giám đốc. Theo đó, hội đồng đại học là cơ quan cao nhất quyết định chiến lược, tài chính và nhân sự cấp cao. Giám đốc đại học (President) chịu trách nhiệm điều hành toàn hệ thống và bổ nhiệm hiệu trưởng (Dean) các trường thành viên.
Tuy nhiên, các trường thành viên cũng có thể có hội đồng riêng, có quyền đề xuất nhân sự và học thuật nội bộ. Ngoài ra, cần xây dựng quy chế nhân sự và học thuật minh bạch, gắn trách nhiệm, cơ chế tài chính và ngân sách: Phân bổ theo sứ mệnh và hiệu quả…
Về cơ chế vận hành và phân quyền quản trị trong đại học đa lĩnh vực, tôi cho rằng, một đại học đa lĩnh vực hiện đại cần có mô hình quản trị tập trung duy nhất, được thể hiện rõ qua hội đồng đại học ở cấp university.
Hội đồng này có thẩm quyền tối cao về chiến lược, tài chính, tổ chức nhân sự cấp cao và giám sát chất lượng toàn đại học. Mọi trường thành viên và đơn vị trực thuộc đều tuân thủ sự điều phối của hội đồng duy nhất, tránh tình trạng “nhiều hội đồng trường”, dễ dẫn đến xung đột lợi ích và xu hướng cát cứ.
Để bảo đảm tính năng động và sự phát triển mạnh mẽ về chuyên môn, tôi cho rằng, cần phân cấp triệt để quyền tự chủ học thuật cho các đơn vị (college, school, department) thành viên.
Các đơn vị này có thể tự quyết định một số vấn đề như: Thiết kế và cập nhật chương trình đào tạo; tổ chức hoạt động tuyển sinh phù hợp với lĩnh vực; tuyển dụng, bổ nhiệm và đánh giá đội ngũ giảng dạy; phát triển nghiên cứu phù hợp với định hướng chuyên ngành.
Về cơ chế phân bổ tài chính và trách nhiệm giải trình, theo tôi nên phân bổ tập trung từ đại học “mẹ” theo các tiêu chí chiến lược, sau đó các trường thành viên tự quản lý chi tiết. Điều này tạo sự minh bạch, đồng thời gắn trách nhiệm từng cấp với kết quả đầu ra. Các đơn vị muốn có quyền cao hơn cần chấp nhận cơ chế giám sát học thuật và tài chính minh bạch từ cấp trung tâm.
- Ông có khuyến nghị gì nhằm hướng đến mô hình đại học đa lĩnh vực thống nhất?
- Hướng đến mô hình đại học đa lĩnh vực thống nhất, tôi cho rằng cần làm rõ một số vấn đề sau: Đại học phải là thực thể thống nhất, có tư cách pháp nhân, quản trị tập trung. Quản trị tập trung - phân cấp triệt để về học thuật, bởi đại học hiện đại cần thực hiện nguyên tắc quản trị tập trung - phân quyền học thuật.
Bên cạnh đó, cần thiết kế lại cấu trúc tổ chức: Trường thành viên phải thiết kế theo lĩnh vực rộng, tích hợp liên ngành; bảo đảm tính toàn diện về lĩnh vực, đặc biệt khoa học cơ bản và nhân văn; chuyển đổi từ hợp tác lỏng lẻo sang tích hợp thực chất.
Ngoài ra, điều kiện để mô hình đại học đa lĩnh vực thống nhất vận hành hiệu quả cần chú trọng đến thiết lập khung thể chế rõ ràng từ Nhà nước; cơ chế nhân sự và tài chính phù hợp với mô hình thống nhất; đồng thuận nội bộ và thay đổi văn hóa đại học; tái cấu trúc học thuật: Tổ chức lại theo lĩnh vực rộng; xây dựng cơ chế đánh giá và minh bạch hóa thông tin
Bên cạnh đó, cần thống nhất khái niệm và tiêu chuẩn về đại học đa lĩnh vực; sửa đổi luật và các văn bản dưới luật để cho phép mô hình hợp thức; thực hiện thí điểm mô hình đại học đa lĩnh vực thống nhất; cải cách chế độ học hàm, học vị gắn với mô hình đại học; thiết lập hệ thống kiểm định và giám sát chất lượng phù hợp với mô hình mới.
- Xin cảm ơn ông!
“Chuyển sang mô hình đại học đa lĩnh vực thống nhất không chỉ là lựa chọn quản trị, mà yêu cầu tất yếu để Việt Nam xây dựng được những đại học nghiên cứu có đẳng cấp khu vực và quốc tế. Cải cách này đòi hỏi không chỉ ý chí chính trị và hỗ trợ thể chế từ Nhà nước, mà còn cần bản lĩnh tự thay đổi từ chính các đại học, bắt đầu từ việc từ bỏ tâm lý cục bộ, hướng tới giá trị học thuật thực chất”, ông Lê Viết Khuyến nhìn nhận.