Thiếu tướng Chu Phác cho rằng, cách lập quẻ của “Thái Ất thần kinh” không khác gì môn Toán học nhưng cực kỳ rắc rối và khó hiểu, trong đó có cách tính số cục (niên cục, nguyệt cục, nhật cục và thời cục).
Mỗi nguyên tý có 72 năm. Niên cục là số từ 1 đến 72 trong mỗi nguyên tý. Dùng mốc tính tích niên từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên hoàng, cách năm Công nguyên 10.153.917 năm theo công thức: Tích niên (Tuế tích) = số của năm xem + 10.153.917.
Tích niên chia 3.600. Phần dư của phép chia trên chia 360. Phần dư của phép thứ 2 chia 72, số dư của phép chia này chính là số niên cục.
Số nguyệt cục: Cục tương ứng với tháng gọi là nguyệt cục. Cách tính là lấy số tích tháng từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đến tháng xem, cộng thêm hai tháng Tý, Sửu vì người ta dùng lịch kiến Dần; hai tháng này gọi là Thiên Chính, Địa Chính.
Công thức tính: Tính số tích tháng từ định tính so với mốc = (10.153.917 + (năm trước năm có tháng xem)*12 + 2 + (số của tháng xem). Chia số tích tháng tính được cho 360. Phần dư của phép chia trên chia tiếp cho 72, số dư là nguyệt cục.
Số nhật cục tính từ sau tiết Đông chí, tìm ngày Giáp Tý đầu tiên gần nhất sau Đông chí năm trước. Lấy đó làm gốc đếm trở đi, tích cho đến ngày xem, được bao nhiêu là số tích ngày. Chia số tích ngày đó cho 360 phần dư lại tiếp tục chia cho 72, còn dư lại bao nhiêu chính là nhật cục.
Số thời cục theo cách tính: Số giờ từ ngày Giáp Tý hoặc Giáp Ngọ gần nhất đến ngày, giờ muốn tính. Chia số giờ đó cho 360, số dư lại chia tiếp 72 số dư chính là thời cục.
Ông Chu Phác cho rằng, đó chỉ là một trong vô vàn cách tính phức tạp của “Thái Ất thần kinh”. Điều đó lý giải vì sao chỉ có Nguyễn Bỉnh Khiêm là học được bí quyết từ cuốn sách này. Theo một số tài liệu, bà Ba Cẩn (Đặng Thị Nhu) – vợ của Đề Thám cũng lĩnh hội được một phần nhỏ từ sách “Thái Ất thần kinh”.
Sấm truyền ứng nghiệm
Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học quan Bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Khi cụ Lương Đắc Bằng ốm, biết không sống được bao lâu, bèn gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm lại trao cho cuốn “Thái Ất thần kinh”. Nhiều người cho rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhờ nghiên cứu cuốn sách này mà thông suốt được mọi việc trong quá khứ, tương lai.
Sử sách đều thừa nhận Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, coi ông là nhà tiên tri số một của Việt Nam. Ông từng đưa ra lời sấm nhà Mạc chạy lên Cao Bằng dựng nghiệp, sau khi thất thủ ở Thăng Long, và sẽ tồn tại ba đời.
Quả nhiên, điều này đúng. Ông còn khuyên Trịnh Kiểm “giữ chùa thờ Phật được ăn oản”, tìm người trong tông thất nhà Lê lập làm vua. Nhà Trịnh làm theo và từ đó nối đời cầm quyền, nhưng danh nghĩa vẫn là tôn phò nhà Lê.
Với nhà Nguyễn, từ khi Nguyễn Kim chết, Nguyễn Uông - con cả của Nguyễn Kim đã bị Trịnh Kiểm ám hại. Trước tình thế nguy nan, Nguyễn Hoàng (con trai thứ Nguyễn Kim) đã cho người đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhận được câu ẩn ý “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (nghĩa là một dải Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời).
Nhờ đó, năm 1568 Nguyễn Hoàng đã xin họ Trịnh vào trấn thủ xứ Thuận Hóa rồi dần xây dựng cơ đồ họ Nguyễn ở phương Nam.
Trong bài thơ “Cự Ngao Đới Sơn”, thuộc tập thơ Bạch Vân am thi tập, ông viết “Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/Đất Việt muôn năm vững trị bình/Chí những phù nguy xin gắng sức/Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình”. Câu này như lời khuyên của Trạng Trình với thế hệ sau, rằng phải nắm giữ được biển Đông thì đất nước mới thái bình, thịnh trị muôn đời.
Người dân Nghệ Tĩnh từ lâu lưu truyền những câu sấm truyền của Trạng Trình: “Đụn Sơn phân giải/Bò Đái thất thanh/Thủy đáo Lam Thành/Nam Đàn sinh thánh”. Tạm dịch nghĩa là “Khi núi Đụn chẻ đôi, khe Bò Đái mất tiếng, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân”.
Nhà sử họ Ngô Đăng Lợi (Hải Phòng) cho biết, sau khi thực dân Pháp đàn áp tàn khốc phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, những lời sấm truyền này được bàn tán xôn xao. Người dân mong chờ một vị thánh sống xuất thế. Lúc đó, khe Bồ Đái nước ngừng chảy, do đó người dân càng tin hơn.
Trong một cuộc gặp gỡ giữa cụ Phan Bội Châu và học giả Đào Duy Anh cùng nhà nho Trần Lê Hữu, Phan Bội Châu đã nói “nếu Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai khác”.