Cán bộ lãnh đạo quản lý phải “truyền cảm hứng” tới toàn thể cán bộ viên chức. Nhà trường cần triển khai chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thường xuyên và phù hợp; có chính sách, chiến lược thu hút, tuyển dụng đãi ngộ cán bộ trẻ, tài năng, nhà khoa học xuất sắc, cán bộ lãnh đạo quản lý đủ tâm và tầm.
Lãnh đạo Trường ĐH Bách khoa Hà Nội nhấn mạnh, người học phải là trung tâm. Mọi chiến lược phát triển phải hướng đến người học, vì lợi ích của người học và phục vụ người học. Theo đó, các đơn vị cần phải đổi mới, phát triển chương trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng và gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học; trong đó người học phải là trung tâm của hệ sinh thái đào tạo – nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo. Ngoài ra, cần triển khai mạnh mẽ chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ tiên tiến, đổi mới mô hình công nghệ dạy và học, tối ưu hóa nguồn lực để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động.
Minh chứng cho quan điểm của mình, PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng viện dẫn, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội có sứ mạng: Phát triển con người, đào tạo nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ và chuyển giao tri thức, phục vụ xã hội, đất nước. Tầm nhìn của trường là trở thành một đại học nghiên cứu hàng đầu khu vực, với nòng cốt là kỹ thuật và công nghệ, tác động quan trọng vào phát triển nền kinh tế tri thức, góp phần giữ gìn an ninh, hòa bình đất nước, tiên phong trong hệ thống GDĐH Việt Nam.
Thực hiện sứ mạng đó, chiến lược phát triển Trường ĐH Bách khoa Hà Nội giai đoạn 2017 - 2025 đặt ra 5 mục tiêu, với 10 nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, trong đó đổi mới quản trị là giải pháp then chốt. Trường ĐH Bách khoa Hà Nội đã áp dụng sáng tạo mô hình quản trị doanh nghiệp, triển khai hệ thống KPI, OKR với 32 bộ chỉ số hoạt động chính gắn với 5 mục tiêu chiến lược phát triển nhà trường.
“Kinh nghiệm cho thấy, cán bộ giảng viên tốt sẽ nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học. Trong 5 năm trở lại đây, số công bố quốc tế nằm trong danh mục ISI của các cán bộ Trường ĐH Bách khoa Hà Nội tăng gấp 5 lần, là minh chứng rõ nét về vai trò của đội ngũ. Đối với người học, nhà trường luôn chú trọng và quyết liệt thực hiện cải thiện chất lượng dịch vụ hỗ trợ, nâng cao thành công của người học.
Nhà trường thực hiện chế độ, chính sách, học bổng cho sinh viên, miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; hỗ trợ vay vốn ngân hàng phục vụ học tập; học bổng của trường và học bổng tài trợ; bảo hiểm y tế; quy định đánh giá điểm rèn luyện cho sinh viên” - PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng trao đổi.
Sinh viên Trường ĐH Công nghiệp Thực phẩm TP Hồ Chí Minh. Ảnh: NTCC |
Cần thiết và cấp thiết
Theo PGS.TS Nguyễn Thu Thủy - Vụ trưởng Vụ GDĐH (Bộ GD&ĐT), học tập ở các trình độ GDĐH là nhu cầu cấp thiết, chính đáng. Điều đó đảm bảo cho nhu cầu học tập suốt đời của người học và cũng thể hiện rằng, GDĐH Việt Nam cần nhận được sự đầu tư lớn trong tương lai. Qua đó, có thể đáp ứng nhu cầu của người học, cũng như tăng cường nguồn nhân lực chất lượng, trình độ cao. Mặt khác, có thể đáp ứng sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chuyển đổi số...
“Chúng tôi kỳ vọng các bên liên quan sẽ nhận thức rõ việc cần thiết, cấp thiết đầu tư hơn nữa cho GDĐH; trước hết là đầu tư cho những trường, ngành trọng điểm tiên tiến, ngang tầm với khu vực và quốc tế” - PGS.TS Nguyễn Thu Thủy đề xuất, đồng thời nhấn mạnh, các cơ sở đào tạo phải không ngừng gia tăng năng lực đào tạo của mình, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước.
Hiện nay, tiếp cận GDĐH ở Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta không thừa thầy, thiếu thợ, mà thiếu cả thầy lẫn thợ. Nhu cầu học tập suốt đời của người học rất chính đáng. Do đó, rất cần các cơ quan chức năng và các bên liên quan cùng chung tay để phát triển GDĐH Việt Nam.
Liên quan đến vấn đề này, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn trao đổi, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH (Luật số 34) quy định rất rõ, ngân sách Nhà nước chỉ thay đổi cơ chế phân bổ ngân sách, không giảm vai trò trong việc cấp ngân sách và đầu tư vào các trường đại học. Tiếc rằng, cơ chế và chính sách được quy định trong luật là đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo chuyển sang cơ chế hỗ trợ trực tiếp cho người học đến nay được thực hiện còn yếu (trừ lĩnh vực đào tạo giáo viên, đề án đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ).
Bộ GD&ĐT đề xuất Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành phối hợp chặt chẽ, đặc biệt là Bộ Tài chính để có lộ trình từng bước, nâng cao tỷ lệ chi ngân sách cho GDĐH. Hiện nay, tỷ lệ này tính trên GDP dao động từ 0,25 - 0,27%; trong khi nhiều nước mức chi từ 0,6 - 1%. Do đó, cần có lộ trình tăng trong một vài năm tới, ít nhất phải bằng với mức trung bình trong khu vực. Ngoài ra, cần đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách, thực hiện đúng tinh thần các nghị quyết của Đảng, cũng như Luật số 34.
Thiếu kinh phí từ ngân sách Nhà nước, kết hợp với thể chế quản trị giáo dục sau phổ thông yếu kém và manh mún ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục đại học cũng như đến tốc độ phát triển năng lực đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ. Việt Nam chi thấp hơn các quốc gia khác trong khu vực cho giáo dục đại học: Trong năm 2019, Việt Nam phân bổ 0,6% GDP cho giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề, so với 0,86% tại Malaysia và 0,9% tại Hàn Quốc. (Trích Báo cáo điểm lại “Giáo dục để tăng trưởng” của Ngân hàng Thế giới)