Giữa sườn núi hiểm trở của vùng cao biên giới Thanh Hóa, có những cặp vợ chồng giáo viên từ miền xuôi đã chọn chung con đường vượt núi, băng rừng để bám bản, gieo chữ.
Cuộc sống của họ giản dị, nhưng tràn đầy ý nghĩa, thấm đẫm tình yêu nghề và lý tưởng cống hiến, góp phần thắp sáng tương lai nơi biên cương Tổ quốc.
Ở các xã vùng cao xứ Thanh, như Trung Lý, Mường Lý, Mường Chanh, Tam Chung…, nhiều cặp vợ chồng giáo viên từ miền xuôi đã chọn cùng nhau bám bản, gieo chữ cho trẻ em dân tộc thiểu số. Dẫu thiếu thốn tiện nghi, những lớp học vẫn vang tiếng “ê…a” rộn rã, hòa cùng lời giảng đầy tâm huyết của thầy cô.
Họ không chỉ là bạn đời mà còn là đồng nghiệp, người bạn đồng hành trong hành trình vượt núi, băng rừng, mang tri thức đến với những mầm non nơi biên cương. Niềm tin vào giá trị giáo dục và tình yêu thương với học trò giúp họ vượt qua mọi khó khăn, biến gian khổ thành động lực để cống hiến.
Với những cặp vợ chồng giáo viên này, được sống và dạy học cùng nhau nơi miền biên cương không chỉ là nghề nghiệp, mà là lý tưởng, hạnh phúc, hành trình thầm lặng nhưng đầy ý nghĩa, góp phần thắp sáng tương lai cho thế hệ trẻ nơi đất trời miền cao.
Thầy Lê Văn Thành - Trường THCS Mường Chanh, là một trong những người như vậy. Quê ở huyện Yên Định cũ, thầy cùng vợ là cô Bùi Thị Giang Châu, quê Triệu Sơn cũ lên công tác tại vùng biên giới xa xôi này gần hai thập kỷ. Cô Châu nhận công tác tại Mường Chanh từ năm 2007. Hai người yêu nhau từ thời đại học, và để không phải sống xa nhau, năm 2009, thầy Thành quyết định lên vùng biên cùng bạn đời xây dựng tổ ấm và gieo chữ nơi núi rừng.
Thầy Thành chia sẻ: “Có những năm, chúng tôi thay nhau ốm vì chưa quen với khí hậu khắc nghiệt. Đến mùa mưa bão, nhà bị tốc mái, đất đá tràn vào, cả gia đình phải tạm trú nơi khác. Thế nhưng, chỉ cần sáng ra nghe tiếng gọi ‘thầy ơi, cô ơi’ của lũ học trò, chúng tôi lại không nỡ rời đi”.
Những dịp kỷ niệm của thầy Thành - cô Châu không có hoa hồng, cũng không có quà đắt tiền. Thay vào đó là bữa cơm giản dị, là những câu chuyện về lớp học và lũ học trò.
Ngày Nhà giáo Việt Nam với họ cũng thật đặc biệt: lũ học sinh ùa đến nhà, tặng thầy cô những bó hoa hái vội ở bìa rừng, ríu rít kể chuyện và cùng ăn những món ăn do thầy cô tự nấu. Không cần vật chất xa hoa, niềm vui lớn nhất của họ là thấy học trò tiến bộ, ánh mắt rạng ngời khi được khen thưởng, những nét chữ đầu tiên của các em người Thái, Khơ Mú.
Đằng sau nụ cười bình dị ấy là biết bao hy sinh thầm lặng. Có lúc cả hai phải băng rừng, lội suối để vận động học sinh đến lớp. Khi đêm xuống, trong cái lạnh thấu xương, họ vẫn ngồi bên nhau soạn giáo án. Vì điều kiện học tập còn hạn chế, con gái lớn phải gửi về quê học lớp 11, còn ở lại bản, họ vừa làm thầy cô, vừa là cha mẹ cho cậu con trai út đang học lớp 6.
Ở nơi biên giới xa xôi ấy, trường học không chỉ là nơi dạy chữ, mà còn là mái nhà thứ hai, nơi thầy trò cùng sẻ chia những bữa cơm giản dị, những niềm vui và nỗi buồn thường nhật. Đối với các cặp vợ chồng giáo viên, ngôi trường là mảnh đất họ dốc lòng cống hiến, bất chấp gian khó, là nơi gửi gắm tuổi trẻ và lý tưởng sống.
Việc giảng dạy tại các trường vùng cao, biên giới chưa bao giờ là dễ dàng. Trước đây, để đến điểm trường, nhiều thầy cô phải vượt hàng chục cây số đường rừng, hoặc lội qua những con suối chảy xiết. Vào mùa mưa, đất đá sạt lở, đường bị chia cắt, họ buộc phải ở lại trường cả tuần. Những lúc ấy, họ nấu ăn bằng gạo mang theo, đun nước bằng củi rừng, ngủ trên những chiếc giường gỗ tạm bợ. Dẫu đơn sơ, tất cả đều đầy ắp tình yêu thương và sự sẻ chia.
Cuộc sống thiếu thốn về vật chất là điều không thể tránh khỏi. Nhiều điểm trường không có điện, giáo viên phải mang pin sạc từ nhà để thắp sáng. Bên cạnh việc dạy học, họ còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác như sửa mái lớp, nấu ăn cho học sinh bán trú, vận động học sinh đến lớp. Dẫu công việc nhiều, áp lực lớn, chưa khi nào họ nản lòng. Với những thầy cô nơi đây, càng gian khó càng cần bám trường, bám lớp, bởi nếu không có họ, sẽ không ai mang ánh sáng tri thức đến cho lũ trẻ nơi biên cương.
Có những người từ miền xuôi lần đầu đặt chân lên vùng biên giới chỉ với một chiếc vali nhỏ và trái tim đầy nhiệt huyết. Khi ấy, đường vào bản vẫn là đất đỏ lầy lội, mùa mưa bùn ngập đến mắt cá chân, điện lưới và sóng điện thoại gần như không có. Thế nhưng, họ quyết tâm ở lại vì học trò, ước mơ gieo chữ, và cũng vì người bạn đời đã cùng chọn con đường ấy.
Thầy Phạm Văn Kiên là một trong những người đầu tiên nhận công tác tại Trường Phổ thông cơ sở Trung Lý vào năm 1988. Đến tháng 6/1997, thầy chuyển về Trường THCS Dân tộc nội trú huyện Mường Lát. Qua nhiều lần thay đổi vị trí công tác, hiện thầy Kiên đảm nhận vai trò Hiệu trưởng Trường PTDTBT - THCS Tam Chung. Vợ thầy, cô Tào Thị Xuân, cũng công tác tại vùng cao từ năm 2001 và hiện là Phó Hiệu trưởng Trường TH&THCS Mường Lát.
Trong hành trình gieo chữ nơi rẻo cao, điều giữ chân các cặp vợ chồng giáo viên không chỉ là trách nhiệm nghề nghiệp, mà còn là niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của giáo dục. Dù cuộc sống còn nhiều thiếu thốn, họ vẫn kiên trì bám bản, bám lớp, bởi học trò, bản làng và những “hạt giống tri thức” đang từng ngày nảy mầm từ mảnh đất gian khó này.
Phó Hiệu trưởng Trường PTDTBT - THCS Mường Lý, ông Nguyễn Văn Quý, và vợ là cô Trịnh Thị Hà nên duyên vợ chồng từ năm 2010. Hiện họ có hai con - một gái, một trai - đều đang theo học tại Trường TH&THCS Mường Lát.
Gắn bó nhiều năm với vùng biên, thầy Quý chia sẻ: “Chúng tôi không chỉ dạy học mà còn làm rất nhiều việc khác: vận động học sinh đến lớp, lo chỗ ăn ở cho các em, sửa chữa cơ sở vật chất. Chính tình cảm gắn bó với học trò và bản làng là động lực lớn giúp chúng tôi vượt qua mọi khó khăn”.
Với những cặp vợ chồng giáo viên, giữ được ngọn lửa nghề không chỉ là yêu cầu về chuyên môn, mà còn là sự rèn luyện bản lĩnh. Khi mệt mỏi hay chùn bước, họ lại nhắc nhau: Nếu mình không ở lại, ai sẽ dạy các em? Ai sẽ mang tri thức đến với những đứa trẻ nơi khó khăn này? Chính tình yêu thương học trò – từ những em nhỏ người Mông, Thái, Dao, Khơ Mú… hiền lành, giàu nghị lực – đã trở thành nguồn sức mạnh lớn lao để họ tiếp tục bám trường, bám lớp.
Thầy Lê Văn Thành và cô Bùi Thị Giang Châu vẫn nhớ rất rõ từng học sinh cũ. Có em Lương Thị Hồng, nay đã trở thành giáo viên Trường Tiểu học Mường Lý. Hai chị em song sinh Lương Thị Đào và Lương Thị Mai, từng được cô Châu kèm cặp nhiều năm, nay là sinh viên ngành Sư phạm. Những dịp lễ Tết, các em quay trở về bản, ghé thăm trường, tìm gặp “thầy cô năm xưa” với ánh mắt rưng rưng và lời cảm ơn mộc mạc nhưng đầy sâu sắc.
Không ít cặp giáo viên có thể nhớ rõ tên từng học sinh, từng hoàn cảnh gia đình, từng ước mơ nhỏ bé ngày đầu của các em. Khi nghe tin học trò thành đạt, họ như được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua những khó khăn chồng chất. Dù tuổi đã cao, nhiều thầy cô vẫn không muốn chuyển về xuôi, bởi bản làng đã trở thành máu thịt, học trò như con cái ruột thịt. Sự tiến bộ của từng em nhỏ chính là thành tựu mà họ luôn tự hào.
Có những trường hợp vợ chồng cùng đứng lớp: một người dạy Thể chất, người kia dạy Âm nhạc. Giờ ra chơi, họ cùng học sinh tập múa hát, chơi trò chơi dân gian, trồng hoa quanh sân trường. Cuộc sống nơi đây tuy giản dị, trôi chậm, nhưng lại đầy ắp ý nghĩa. Mỗi mùa tựu trường là một khởi đầu mới, mỗi học sinh trưởng thành là một cột mốc hạnh phúc đối với những thầy cô tận tụy.
Những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội, nhiều trường vùng cao như Mường Chanh, Trung Lý, Mường Lý… đã được đầu tư xây dựng mới, khang trang hơn. Nhiều nơi có ký túc xá cho học sinh, có nhà công vụ cho giáo viên. Dù cơ sở vật chất chưa thể đầy đủ, nhưng đó là nguồn động viên tinh thần lớn, giúp các cặp vợ chồng giáo viên yên tâm công tác lâu dài.
Học sinh giờ đây cũng tiến bộ hơn, chăm ngoan, và có khát vọng học tập rõ ràng hơn. Nhiều em mơ ước trở thành giáo viên như thầy cô của mình. Ngọn lửa tri thức được truyền lại âm thầm nhưng mãnh liệt, qua từng năm học, qua từng lớp người, từ những con người đã chọn sống cho người khác, chọn bám trụ nơi biên cương Tổ quốc.
Khi viết về những cặp vợ chồng giáo viên ở vùng biên giới xa xôi, chúng tôi không khỏi xúc động và cảm phục. Trong mỗi con chữ họ gieo nơi rẻo cao, có mồ hôi, có nước mắt, có tình yêu và cả lý tưởng. Thầy cô không chỉ ở lại với nhau trong cuộc sống hôn nhân, mà còn ở lại với học trò, với bản làng, và với tất cả những điều tốt đẹp nhất của nghề giáo.
Khi vừa ra trường, rồi nên duyên vợ chồng, chúng tôi đã có nhiều cơ hội chuyển về xuôi. Nhưng mỗi lần nhìn thấy những học trò lam lũ, lặng lẽ đến lớp giữa rét mướt hay mưa gió, vợ chồng tôi lại không đành lòng. Chúng tôi luôn động viên nhau cố gắng vượt khó để truyền dạy tri thức cho lũ trẻ. Bởi chúng tôi tin rằng đất nước sẽ thay đổi, cuộc sống người dân sẽ khởi sắc nhờ những chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. - Bà Tào Thị Xuân, Phó Hiệu trưởng Trường TH&THCS Mường Lát