Mở rộng tuyến đường giao thương
Quan hệ đối tác an ninh Nga - Trung một phần được thúc đẩy bởi hoạt động thương mại trên tuyến đường thương mại giàu năng lượng. Nhiệt độ ấm hơn đang mở ra các tuyến vận chuyển mới giữa châu Á và châu Âu và cuối cùng có thể xuất hiện các tuyến vận chuyển hoàn toàn mới gần Bắc Cực. Theo một nghiên cứu hồi tháng 6 vừa qua trên tạp chí Nature Communications, ngay từ những năm 2030, Bắc Cực có thể gần như không còn băng vào tháng 9, tháng có lượng băng thấp nhất trong năm.
Các công ty vận chuyển đang nghiên cứu bờ biển phía Bắc của Nga như là tuyến đường ngắn nhất giữa các cảng biển của Đông Á và châu Âu, bỏ qua các đại dương phía Nam và kênh đào Suez. Hành trình của một tàu chở hàng từ Nhật Bản đến một cảng ở Hà Lan có thể được cắt giảm hơn một nửa, xuống còn dưới 10.000 km so với hơn 20.000 km hiện tại, bằng cách đi qua Bắc Băng Dương.
Tuyến đường biển phía Bắc, mà Nga khẳng định quyền điều chỉnh theo thỏa thuận Bắc Cực, cho phép các tàu chở khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) vận chuyển hàng hóa qua eo biển Bering. Tuyến đường chạy dọc theo biên giới biển giữa vùng biển của Nga và Mỹ ở phía tây Alaska.
Nhiều tàu trong khu vực đang vận chuyển khí đốt của Nga tới thị trường Trung Quốc. Năm ngoái, Nga và Trung Quốc đã sử dụng bộ ba tàu phá băng khổng lồ treo cờ Hồng Kông để vận chuyển LNG của Nga đến Trung Quốc và các thị trường khác, theo dữ liệu vận chuyển của AAC SpaceQuest. Hai nước đang tìm cách tăng gấp đôi lượng khí đốt của Nga xuất sang Trung Quốc.
Tuy nhiên, quan hệ đối tác Nga - Trung làm tăng thêm những thách thức mà quân đội Mỹ phải đối mặt khi nước này bước vào kỷ nguyên mới của sự cạnh tranh giữa các cường quốc. Trong nhiều thập kỷ, Mỹ đã tập trung vào việc chống lại các cuộc nổi dậy ở Trung Đông và Afghanistan, đồng thời gần đây đang nỗ lực điều chỉnh lại các lực lượng của mình để đối mặt với một loại xung đột tiềm tàng khác.
Khó khăn của Mỹ
Chính quyền Biden đã công bố chiến lược Bắc Cực mới vào tháng 10 năm ngoái, trong đó xác định Mỹ có lợi ích an ninh quốc gia trong khu vực. Nhưng sự hiện diện lớn hơn của Mỹ trong khu vực đang gặp khó khăn do thiếu tàu có thể vượt qua được các lớp băng.
Một tàu phá băng của Nga. Ảnh: WSJ
Để so sánh, Nga đã liên tục đầu tư vào những con tàu có thể phá được những khối băng khác nhau. Moskva đang tìm cách tăng cường hạm đội lớn của mình vào năm 2024 với ba tàu phá băng lớp “Dự án 23550” mới, được cho là sẽ được trang bị tên lửa hành trình Kalibr. Những tàu phá băng đó có thể di chuyển giữa một chuỗi các căn cứ quân sự mới mà Nga đã mở phía trên Vòng Bắc Cực. Các căn cứ cũng đã tiếp nhận một phi đội máy bay chiến đấu phản lực Su-34 của Nga để bay qua các tuyến đường thủy ở Bắc Cực.
Như vậy, Mỹ đang tụt hậu so với Nga về các tàu phá băng có thể phá vỡ lớp băng rắn dày hơn 1 m. Những con tàu khổng lồ này có thể mang thiết bị hạng nặng, nhiên liệu và nguồn cung cấp qua biển băng dày, bất cứ nơi nào từ trạm nghiên cứu ở Nam Cực đến Bắc Cực, đồng thời theo dõi truyền dẫn vô tuyến, vận chuyển và mang theo các trang thiết bị quân sự như máy bay trực thăng và thiết bị để ứng phó với tai nạn hoặc thảm họa môi trường.
Hiện tại, Mỹ không có tàu phá băng nào hoạt động thường xuyên ở Bắc Cực. Healy, một con tàu diesel khổng lồ 16.000 tấn, là con tàu dài nhất và lớn nhất của lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ, nhưng nó sẽ được tái trang bị vào mỗi mùa đông ở bang Washington hoặc California.
Trong khi đó, công việc bảo trì rất tốn kém đối với Healy. Được hạ thủy và đưa vào hoạt động vào những năm 1990, tàu Healy hầu như không được chuẩn bị cho đối đầu quân sự. Con tàu chứa đầy thiết bị khoa học hạng nặng và phòng thí nghiệm, nhưng nó không có súng/pháo trên boong để tự vệ. Tàu Healy có hệ thống thông tin liên lạc công nghệ cao và nhà chứa máy bay trực thăng được sử dụng trong quân sự, nhưng trọng tâm của nó là khoa học trái đất, đặc biệt là nghiên cứu địa hóa học và khí hậu.
Tàu phá băng khác của của Mỹ, Polar Star, mạnh hơn Healy nhưng đã hết thời gian sử dụng và được giao nhiệm vụ tiếp tế hàng năm cho các nhà khoa học ở Nam Cực.