Hoạ sĩ Cát Tường không hề bác bỏ mà còn chấp nhận lời phê bình. Ông thừa nhận tính lai căng của bộ trang phục, thậm chí cố tình thiết kế như vậy, vì tính tiện lợi trong đi đứng, giao thiệp.
Thời điểm đó, những cuộc thảo luận về áo dài Cát Tường và các trí thức đương thời vẫn chỉ xoay quanh y phục của phụ nữ Việt. Nam giới khi ấy đa phần đều mặc veston như người Pháp, nhưng các nhà cách tân có vẻ hài lòng với cách ăn vận của nam giới. Tuy nhiên, lại cảm thấy rằng phụ nữ Việt không nên mặc váy đầm giống phụ nữ Pháp, thế nên mới cần một kiểu trang phục riêng.
Thời kỳ đó, nhóm Tự Lực Văn Đoàn khuyến khích độc giả giải phóng bản thân, thoát khỏi tư duy cổ hủ, tự do thể hiện cái tôi. Cát Tường cũng ra sức sáng tạo theo tinh thần đó, nhưng thay vì dùng ngòi bút, phương tiện của ông là vải vóc.
Áo ngũ thân vốn rất thùng thình và chỉ mặc với quần đũng màu đen. Cô nào, bà nào mặc quần màu trắng sẽ bị chê là thiếu đoan trang. Bởi vậy, những cô gái mặc chiếc áo dài Lemur với thiết kế ôm sát tôn dáng đều thể hiện tư tưởng tân thời.
Sau này, từ “Áo dài” (ao dai/aʊˌ dʌɪ/) được đưa nguyên bản vào từ điển Oxford và được giải thích là loại trang phục của phụ nữ Việt Nam với thiết kế hai tà áo trước và sau dài chấm mắt cá chân che bên ngoài chiếc quần dài.
Tôn vinh phụ nữ Việt
Áo dài Lemur của hoạ sĩ Cát Tường thịnh hành đến khoảng những năm 1943. Sau đó, các thiết kế áo dài hầu như được lấy cảm hứng cách tân từ áo dài Lemur.
Đặc biệt là áo dài Lê Phổ, do họa sĩ Lê Phổ thiết kế kết hợp từ áo tứ thân và biến thể của áo dài Lemur. Lê Phổ đã thu gọn kích thước áo dài để ôm khít thân hình người phụ nữ, đẩy cầu vai, kéo dài tà áo chạm đất và đem đến nhiều màu sắc mới mẻ.
Lê Phổ đã bỏ hết những ảnh hưởng phương Tây và thay thế bằng những chi tiết từ áo tứ thân. Từ thời điểm này đến những năm 1950, phong cách áo dài Việt Nam đã trở nên vô cùng nổi tiếng.
Tiếp sau đó là áo dài Raglan còn gọi là áo dài giắc-lăng, xuất hiện vào năm 1960 do nhà may Dung ở Đakao, Sài Gòn sáng tạo ra. Điểm khác biệt lớn nhất của áo dài Raglan là áo ôm khít cơ thể hơn, cách nối tay từ cổ chéo xuống một góc 45 độ giúp người mặc thoải mái linh hoạt. Hai tà nối với nhau bằng hàng nút bấm bên hông. Đây chính là kiểu áo dài góp phần định hình phong cách cho áo dài Việt Nam sau này.
Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ có sự biến đổi với nhiều kiểu dáng, chất liệu từ hiện đại đến phá cách. Áo dài còn được biến chuyển thành áo cưới, áo cách tân… Nhưng dù thế nào thì chiếc áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt vẫn giữ được nét uyển chuyển, gợi cảm, kín đáo mà không trang phục nào mang lại được.
Cùng với xu hướng năng động, thay đổi của lối sống hiện đại, tà áo dài truyền thống được các nhà thiết kế cách điệu với tà ngắn hơn. Thay đổi ở cổ áo, tay áo hoặc thậm chí là tà áo hoặc quần mặc chung với áo dài đem đến cho người phụ nữ Việt nhiều sự chọn lựa.
Cũng chính vì sự cách điệu này mà áo dài ngày càng được phụ nữ Việt diện nhiều hơn trong đời sống hàng ngày. Ngày nay, chúng ta có thể bắt gặp tà áo dài đầy màu sắc với nhiều kiểu dáng mới lạ, độc đáo trong công sở, nơi tâm linh hay ngoài phố phường.
Có thể nói, áo dài không chỉ là một bộ trang phục đại diện cho cả một nền văn hóa, mà còn là cảm hứng sáng tác không dứt của nghệ thuật, trở thành biểu tượng của nền văn hóa Việt Nam.
Theo bà Phạm Nguyên Thảo, tác giả tập sách “Áo dài Lemur và bối cảnh Phong Hóa & Ngày Nay” (Khai Tâm và NXB Hồng Đức), dù biến tấu như thế nào - từ áo dài cao cổ xuất hiện lần đầu trong cuộc thi áo dài hàng nội hóa năm 1960 do nữ diễn viên Kiều Chinh mặc cho đến áo dài hở cổ bà Ngô Đình Nhu, áo Raglan… thì áo dài vẫn có hai thân, khoe được ngực, eo của người mặc một cách kín đáo, tăng được vẻ đẹp của thân hình thiếu nữ xuân hồng.