Phan Thúc Trực sinh năm 1808 tại làng Phù Ninh, tổng Vân Tụ, huyện Đông Thành (nay là huyện Yên Thành – Nghệ An). Lúc đầu, ông có tên là Phan Dưỡng Hạo, sau đổi là Phan Thúc Trực, tự là Hạnh Quý, hiệu là Cẩm Đình.
Tú tài 10 khoa, Thám hoa đứng đầu
Phan Thúc Trực sinh ra trong một gia đình dòng dõi có đến 7 đời đăng khoa. Cha là cụ Phan Vũ - một tú tài nổi tiếng hay chữ, được gọi là cụ “Nho bồ” với hàm ý một bồ chữ.
Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng là thần đồng và “chẳng sách nào không đọc, đã đọc sách là quên hết mọi việc, và đọc đến đâu nhớ đến đó”. Năm 16 tuổi ông đỗ đầu xứ trong kỳ thi phúc khảo “tiến ích” của tỉnh. Năm 17 tuổi đậu tú tài khoa Ất Dậu (1825) tại trường thi Nghệ An.
Cảnh nhà neo đơn ông phải ra Thanh Hóa làm nghề dạy học ở làng Nguyệt Viên, tổng Từ Minh, huyện Hoằng Hóa. Nguyệt Viên là một làng khoa bảng. Ca dao Thanh Hóa có câu: Nguyệt Viên mười tám ông nghè/ Ông cưỡi ngựa tía ông che lọng vàng.
Ngồi dạy học ở làng Nguyệt Viên để kiếm tiền nuôi con, nhưng kỳ thực là để học thêm, rèn luyện văn tài. Tuy nhiên, việc thi cử sau đó của ông cũng rất lận đận, liên tiếp nhiều khoa thi Hương cũng chỉ đỗ tú tài.
Tính ra ông đã dự liên tiếp 10 khoa thi, gồm 5 chính khoa đời Minh Mệnh, 3 chính khoa và 2 ân khoa đời Thiệu Trị. Thầy dạy của ông ở Diễn Châu nhận xét: “Phan tử tài, cử nhân bất túc, tiến sĩ hựu dư” (nghĩa là: Tài năng như trò Phan, mặc dù không đỗ cử nhân nhưng lại thừa sức đỗ tiến sĩ).
Theo quy chế thời Nguyễn, đỗ cử nhân mới được đi thi Hội, nhưng đến năm Ất Tỵ (1845), triều đình có chiếu chỉ đặc cách cho những ai đỗ 7 khoa Tú tài trở lên được vào học ở Trường Quốc Tử Giám ở Huế để rèn luyện văn bài và thi Hội. Gặp được điều may mắn đó, ông dự khoa thi Hội năm Đinh Mùi tổ chức vào tháng 3 năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) và đỗ tiến sĩ.
Tháng 4 cùng năm vào thi Đình, vua ra đề và đích thân duyệt bài thi. Khi đọc văn ông, vua phê: Đặc ân cho Phan Thúc Trực đệ nhất giáp tiến sĩ, cập đệ đệ tam danh (tức Thám hoa). Triều Nguyễn không thể lấy Trạng nguyên, khoa ấy triều đình không lấy Bảng nhãn, nên ông được coi là người đỗ đầu – gọi là Đình nguyên Thám hoa.
Như vậy, Phan Thúc Trực là người đầu tiên ở Nghệ An đỗ đầu (thủ khoa) kỳ thi Đình triều Nguyễn. Khi về làng xã làm lễ vinh quy bái tổ, cạnh tấm biển “Ân tứ vinh quy” còn có tấm biển “Khôi đa sĩ” (đứng đầu trong đám đông kẻ sĩ) do vua Thiệu Trị ban tặng.
Ở kinh đô gọi ông là Thám hoa, còn ở quê người ta gọi ông là Thám mười, vì mười lần lều chõng thì 10 lần trúng tú tài. Khi vinh quy về làng, có người mừng câu đối: Nhất cử thành danh thiên hạ hữu/ Thập khoa liên trúng thế gian vô (Thi cử khoa thành danh thiên hạ có/ Mười khoa trúng liên tiếp thế gian không).
Giai thoại ứng đáp
Với tài năng và tấm lòng nhân đức nên sau khi Phan Thúc Trực mất, dân làng đã dựng đền Nhà quan - sau gọi là đình Phú Ninh. Tên ông được đặt cho một trường học tại huyện Yên Thành, ở thành phố Vinh cũng có một con phố mang tên ông.
Sau khi đỗ Thám hoa, Phan Thúc Trực và các vị tân khoa được xem vườn thượng uyển, được ban yến và dạo thuyền rồng trên sông Hương với vua Thiệu Trị. Bơi thuyền giữa sông, bỗng vua hỏi Phan Thúc Trực: Nhà ngươi có trung thành với trẫm không?
Phan Thúc Trực thưa: Muôn tâu hoàng thượng, hạ thần xin suốt đời trung thành. Vua nói: Thế nhà ngươi có dám chết không? Thám hoa thưa: Muôn tâu, xin sẵn sàng chết vì hoàng thượng. Vua phán: Vậy nhà ngươi hãy nhảy xuống sông đi!
Không chần chừ, Phan Thúc Trực nhảy ùm xuống sông. Một lát sau ông ngoi lên mặt nước, nhà vua hỏi: Sao nhà ngươi lại sợ chết? Thám hoa họ Phan thưa rằng: Muôn tâu, hạ thần vừa nhảy xuống dưới thủy cung gặp Khuất Nguyên, người bảo: “Ta gặp chúa mờ ám nên nhảy xuống sông mà chết, còn anh gặp bậc vua sáng thì quay trở lại trần gian”. Vua khen tài ứng đối và thưởng cho một chén rượu.
Được vua ban ngựa hồng và cho một toán lính hộ vệ vinh quy bái tổ. Trên đường về Phan Thúc Trực đã ghé qua các gia đình để tạ ơn do những người đã giúp mình. Khi đến nhà ở phía Bắc sông Gianh người đã gói cơm nếp cho ông khi vào kinh thi, ông sừng sờ thấy ngôi nhà đã bị cháy rụi.
Hỏi nguyên do thì thấy chủ nhà buồn rười rượi: Cháu nghĩ không may nhà bị cháy, trời cho khỏe mạnh thì một thời gian sau vợ chồng cháu sẽ làm lại được. Nhưng tiếc nhất là cuốn gia phả ông cha để lại ghi đến mười đời, có đủ chức danh, phần mộ, ngày giỗ… bây giờ không biết làm sao? Chính cuốn gia phả để trên bàn thờ mà hôm ở đây ngài đã xem.
Tân Thám hoa an ủi: “Xin anh chị cứ yên tâm, cuốn gia phả viết rất tốt, đọc xong tôi còn nhớ cả”. Nói rồi ông lấy giấy bút ra ngồi ghi một mạch chừng hơn 2 giờ mới xong. Ông còn đọc lại cho gia chủ nghe. Chủ nhà sửng sốt thốt lên những lời thán phục: “Ngài quả là một vị thánh. Cuốn gia phả hơn 20 trang, mà chỉ xem một lần mà nhớ hết”.
Trong thời gian chờ bổ dụng, ông ở nhà thấy cánh đồng làng Phú Ninh khi nước sông Cẩm Giang triều cường lên không cấy được lúa, ông bỏ tiền và hô hào các nhà phú hữu góp tiền làm thủy lợi giữ nước ngọt để dân cày cấy.
Một thời gian sau, ông được triều đình bổ chức Hàn lâm viện trước tác. Sau được thăng Thừa chỉ, thẻ ngà khắc là “Tứ Phan Thúc nhập các” - tức làm việc trong cung vua. Mùa xuân năm sau Viện Tập hiền mới đã được xây dựng xong, ông được sung vào Viện phụ trách việc tuyển trạch văn chương, sau đó được thăng Y viện thị giảng, hàm tụng ngũ phẩm, rồi sung Kinh diên Khởi cư chú.
Thương dân, dân lập đền thờ
Làm việc trong triều, Phan Thúc Trực luôn được gần vua, nhiều lần vâng lệnh làm thơ văn, được vua khen ngợi và ban thưởng khá hậu. Tác phẩm của ông có: Quốc sử di biên, Trần Lê ngoại truyện, Diễn Châu phủ Đông Thành, huyện thông chí, Hiệu tần thi tập, Tứ phương lan phả, Bắc hành Thi thảo, Nam hành Thi thảo…
Năm Tân Hợi (1851) trên đường đi cầu di thư (sưu tầm thư tịch cũ), một hôm qua đò sông Mã ở Thanh Hóa, thì nước nguồn đổ về rất lớn và trời cũng chập tối. Nhóm của ông phải đi qua đò hai lần và ông cùng một người lính túc vệ đi chuyến đò đầu.
Qua đò đang đi dọc bờ sông thì phát hiện một chiếc bia đá khá to. Hai người tìm bó đuốc ra đi thì nước đã ngập đến chân bia. Người lính rọi đuốc cho ông đọc, nhưng vì nước lên nhanh quá, ông phải đọc từ dưới lên và khi đọc hết bia thì nước cũng vừa ngập. Bằng trí nhớ, ông đã chép lại toàn bộ văn bia trước sự khâm phục của nhiều người.
Năm sau 1852, hoàn thành nhiệm vụ sưu tầm thư tịch cũ, trên đường về kinh đô, đến Thanh Hóa ông thì lâm trọng bệnh và tạ thế (có người nói ông bị đầu độc) hưởng dương 44 tuổi.
Được tin, vua Tự Đức vô cùng thương tiếc, truy phong là “Thị giảng học sĩ”, trật tòng tứ phẩm và phái Tổng đốc Nghệ An mang phẩm vật tới viếng cùng bức trướng với 4 chữ “Học cao hạnh thuần” (Học vấn cao thâm, đức hạnh thuần hậu). Gần 30 năm sau, theo sách “Đại Nam thực lục”, vua Tự Đức còn ca ngợi thực tài, thực học của ông.
Với quãng đời ngắn ngủi, nhưng ông đã để lại 13 tác phẩm, gồm các thể loại: Lịch sử, Địa lý, Văn thơ. Đặc biệt “Quốc sử di biên” bổ sung những điều còn thiếu sót hoặc ghi chưa đúng trong sách quốc sử.
Tập thơ “Cẩm Đình thi tập” gồm 375 bài, trong đó có 369 bài thơ chữ Hán và 6 bài thơ Nôm. Thơ ông phản ánh hiện thực làng quê Việt Nam, nói lên tình yêu nhân dân, tình yêu thiên nhiên và tình nghĩa thắm thiết của những người trong gia đình, dòng họ.
Tác phẩm “Đông Thành huyện thông chí” nói về duyên cách địa lý, về sông núi, về sự thay đổi tên gọi của các làng xã qua các thời đại ở hai huyện Yên Thành, Diễn Châu. Ngoài ra, Phan Thúc Trực còn là một nhà folklore (văn hóa dân gian), được Hội Văn nghệ Dân gian Nghệ An tôn vinh là ông Tổ.
Thám hoa Phan Thúc Trực để lại cho đời những tác phẩm đồ sộ và giá trị trên nhiều lĩnh vực. Tên tuổi của ông được lưu giữ trong rừng sách ở Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội, TPHCM, Hồng Kông, Đài Loan, Paris.
Tuy sống gần vua nhưng Thám hoa Phan Thúc Trực rất gần dân. Dân chúng biết ông chính trực nên khi có dịp thì thường đến nhờ cậy. Những bổng lộc và phần thưởng triều đình ban cho, ông thường mang phân phát cho dân, ai thiếu gạo ông cho gạo, ai thiếu tiền ông cho tiền, ai oan khuất thì ông giúp họ kêu oan.