Thế rồi như để tạ lỗi với vợ, ông vác cào cùng ra đồng làm cỏ lúa. Những ngày sau, ông vẫn đi ra đồng làm như thế. Mặc dù ngoài mặt thì cười nói như không có chuyện gì, nhưng trong bụng luôn lo âu, phấp phỏng.
Khoảng nửa tháng sau, khi ấy hai vợ chồng ông đang làm cỏ lúa, thì ở phía làng có người hớt hải chạy tới. Khi gần đến nơi, ông nhận ra đó là người chủ trọ ở Kinh thành đến báo tin ông đỗ đầu khoa thi.
Lúc này nhớ lại chuyện được thần báo mộng khi xưa, Nguyễn Minh Triết mới hiểu ra “độc thư đáo lão vị thành danh” mang ý nghĩa đọc sách đến già, năm “mùi” thì mới thành danh. Chữ “vị” còn có nghĩa là năm Mùi. Trong tất cả khoa thi, không năm nào trúng năm Mùi cả, chỉ đến khoa thi đó mới là năm Tân Mùi.
Dẫu vậy, nếu ông không kiên trì, mà thoái chí nản lòng, thì chắc chắn năm Tân Mùi 1631 ấy, ông cũng không thể trở thành Thám hoa. Câu chuyện của vị Thám hoa 53 tuổi trở thành tấm gương cho các sĩ tử thời ấy.
Chuyện chấm thi năm Tân Mùi (1631) có một số tư liệu chép lại rằng, khi chấm bài các quan thấy có bài thi làm rất tốt, nhưng lại chỉ hoàn thành có 4 đề mục, về lý thì không đỗ. Nhưng vì bài làm quá hay nên các quan quyết định để riêng ra rồi xét sau.
Sau khi trình chúa các quyển đậu, chúa hỏi: “Những quyển định lưu xét kỳ này, có quyển nào hay không?”. Các quan mới bẩm có một bài làm 4 đầu mục rất tốt, nhưng lại sót 8 đầu mục. Chúa nói rằng: “Thơ một câu, phú một liễn. Một câu hay còn có thể lấy, huống hồ là 4 mục”.
Đức nghiệp nhà nho
Quyển thi được trình lên chúa đọc thấy hay và tâm đắc, nhưng còn băn khoăn vì một số chỗ không hiểu. Chúa liền truyền đưa cho Trạng nguyên Nguyễn Thị Duệ xem.
Bà Nguyễn Thị Duệ giải nghĩa theo điển tích cùng hàm ý sâu xa khiến chúa cùng các quan rất khâm phục. Tuy nhiên, biết mọi người còn băn khoăn vì bài này chỉ làm có 4 đầu mục, nữ Trạng nguyên nói: “Bài văn làm được 4 câu mà hay còn hơn làm hết 12 câu mà không hay, triều đình cần người thực tài chứ không cần kẻ nịnh bợ”.
Giai thoại kể rằng, thời trẻ do đường công danh lận đận, nên ngoài 20 tuổi Nguyễn Minh Triết vẫn chưa lấy vợ. Một đêm, ông ngồi đọc sách chợt thiếp ngủ, thì Thần nhân đến báo mộng rằng: “Vợ nhà ngươi đã sinh ra rồi, sau này hãy tìm đến mà dạm hỏi”.
Sáng hôm sau, hỏi ra thì biết đêm qua trong làng có một người sinh con gái. Ông tin như thế và vẫn cố chờ, đến khi đứa trẻ lớn lên thành người con gái mặt hoa da phấn, thì tiếc thay lại bị một Thổ hào ở xã Lạc Đạo đến tranh mất.
Mấy năm sau, khi người con gái đã sinh con và vị Thổ hào cũng ốm chết, thì ông mới đem trầu cau đến dạm hỏi, để cưới về làm vợ.
Lại một chuyện khác kể rằng, có một người bạn học từ thời tóc còn để chỏm bị mắc bệnh, lâu ngày không khỏi. Mọi người cho rằng ông ta đã bị ma ám. Nguyễn Minh Triết tới thăm, dán đôi câu đối ở ngoài cửa: Phùng khứ tật, hoắc khứ bệnh, bệnh tật khử trừ/ Hàn diên thọ, đỗ diên niên, thọ niên diên vĩnh.
Dán xong, ông về thẳng nhà. Liền sau đó, người bệnh đang thiêm thiếp ngủ, bỗng toát mồ hôi giật mình tỉnh giấc đòi uống nước, ăn cháo. Mấy hôm sau thì bệnh tật khỏi hẳn.
Mấy câu giai thoại dẫn trên, là dân gian muốn giải thích về tài văn học của Thám hoa Nguyễn Minh Triết, chứ kỳ thực khó có chuyện thần kỳ.
Bình sinh, Thám hoa Nguyễn Minh Triết sáng tác thơ văn khá nhiều, nhưng đến nay đã thất lạc, chỉ còn lại một bài thơ chép trong “Toàn Việt thi lục”.
Đình nguyên Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo – một vị khoa bảng văn chương nổi tiếng cùng thời rất bái phục văn thơ của của Nguyễn Minh Triết. Ông từng đánh giá: “Riêng một mình ông đã là cao lực hùng văn vượt lên một thời”. Trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú xếp Nguyễn Minh Triết vào hàng những “Nhà nho có đức nghiệp”.
Ngoài 80 tuổi Nguyễn Minh Triết về trí sĩ với tước Cẩn quận công. Tuy thế những dịp lễ tết hay việc đại sự, ông vẫn được mời vào triều bởi tài học rộng hiểu nhiều.
Thám hoa Nguyễn Minh Triết mất năm 1673, thọ 95 tuổi. Triều đình ban tên thụy là Văn Đẩu với hàm ý là tài năng, phẩm hạnh sáng như sao trên trời.