Các lỗ đen ra đời từ sự sụp đổ của những sao khổng lồ và lớn lên bằng cách ngấu nghiến khí, bụi, các sao và các lỗ đen khác. Ở một số vết đứt gãy này của không-thời gian (cách mà các nhà khoa học gọi các lỗ đen), ma sát sinh ra do vật chất chuyển động xoắn vào lỗ đen khiến lượng vật chất này bị làm nóng lên và phát ra ánh sáng, nhờ đó các kính thiên văn có thể phát hiện được. Những lỗ đen siêu nặng ở trung tâm của các thiên hà hút vật chất vào và phát ra ánh sáng như vậy được gọi là những nhân thiên hà hoạt động (viết tắt là AGN).
Những AGN mạnh nhất là những quasar - những lỗ đen nặng gấp hàng tỷ lần Mặt Trời với những vụ bùng nổ ánh sáng mạnh gấp hàng tỷ lần ánh sáng của những ngôi sao sáng nhất. Tới nay, ánh sáng phức tạp của những đối tượng này vẫn là thứ khó giải thích, và vì thế trước đây các nhà thiên văn chỉ tập trung vào tìm hiểu sự tiến hóa của những vụ nổ khổng lồ trong vũ trụ: các supernova, để nghiên cứu sự trôi qua của thời gian trong vũ trụ sơ khai.
"Trong khi các supernova chỉ như một chớp sáng đơn lẻ, khiến cho chúng dễ nghiên cứu hơn, thì các quasar phức tạp hơn, giống như một màn trình diễn pháo hoa," Lewis cho biết. "Điều mà chúng tôi thực hiện là làm sáng tỏ màn trình diễn pháo hoa này, và cho thấy các quasar cũng có thể được sử dụng làm những thước đo thời gian chuẩn cho vũ trụ sơ khai."
Để khám phá ra hiệu ứng này, các nhà thiên văn đã sử dụng tới lượng dữ liệu thu được trong hai thập kỷ của 190 quasar và phân tích các bước sóng khác nhau phát ra từ chúng để chuẩn hóa các chớp sáng và biến chúng thành những tiếng tích-tắc của vũ trụ.
Theo Lewis, những nghiên cứu trước đây vẫn còn để lại nghi vấn về việc liệu những quasar có thật sự là những vật thể tồn tại trong vũ trụ (hay chỉ là một hiệu ứng của bức xạ), và bản thân sự giãn nở của không-thời gian có phải là chính xác. Tuy nhiên, dữ liệu và phân tích mới này đã xác nhận được những điều đó và một lần nữa chứng minh những dự đoán trong thuyết tương đối rộng của Einstein.
Bryan
Theo Livescience