Bài học về tình thương, nhân cách, nghị lực sống
Bác Hồ về thăm quê. Ảnh tư liệu. |
Có thể nói rằng từ những tháng ngày dọc đường xứ Nghệ, những kí ức thanh bình ít ỏi ấy có thể là bệ đỡ để rồi từ đó Người có thể vượt qua những tang thương. Hình ảnh lay động lòng người đọc nhất là cảnh đám tang bà Hoàng Thị Loan giữa đất trời “Kinh thành Huế nghiêng nghiêng dưới gầm trời u ám cuối năm”, khi đó cậu bé “Nguyễn Sinh Côn, đầu đội khấu rơm, mặc áo đại tang, chống gậy, chân đất, đi sau quan tài mẹ... Côn gục đầu vào nắp áo quan mẹ... Côn vừa khóc nấc dồn dồn, toàn thân run lên...”.
Rồi đến cảnh “Chôn cất mẹ xong, Côn lại bế em về với ngôi nhà hoang vắng trong thành nội... Côn bế em vào lòng, tựa lưng bên bàn thờ mẹ nhìn đau đáu trong đêm đen quạnh quẽ mịt mù”. Vậy đấy, tuổi thơ của Bác trải qua những khổ ải, thiếu thốn trăm bề, và Bác đã vươn lên, vượt qua những giông tố ấy, mãi là bài học về tình thương, nhân cách, nghhị lực sống ngay từ thuở ấu thơ của Người...
Đọc “Dọc đường xứ Nghệ” ta còn thấy nhà văn Sơn Tùng đã mô tả sống động không khí ở cả vùng Nghệ An giàu truyền thống yêu nước nuôi dưỡng ý chí của một nhân cách rất lớn, một vị lãnh tụ vĩ đại sau này bằng một giọng văn thanh lịch, đậm chất cổ điển kết hợp với lời ăn tiếng nói hàng ngày được thể hiện một cách tự nhiên, chân thật.
Ở “Búp sen xanh” là những gì chân thật, gần gũi, thân thương mà cũng vĩ đại, thiêng liêng nhất về Người. Ta như thấy đâu đó bóng dáng tuổi thơ nghịch ngợm của chính mình. Ta lặng người xúc động bởi tình người của những người thợ xóm Chiếu Sài Gòn làm phu khuân vác.
Tình làng nghĩa xóm của cậu bé Nguyễn Sinh Côn vào năm mất mùa đã lén xúc gạo nhà mình đem cho bà hàng xóm phải ăn thân chuối cầm hơi; của những người hàng xóm giúp đỡ đưa tang, ai cũng muốn đón anh em Côn về ở với mình vì xót thương hoàn cảnh côi cút mất mẹ, cha lại ở xa.
Ta đã nghẹn ngào bởi trong ngôi nhà hoang vắng trong cái cảm giác sợ hãi, cô đơn những đêm đầu vắng mẹ ở thành nội, bé Xin nhớ hơi mẹ, thèm sữa gào khóc, không dỗ được em, Côn khóc luôn với em.
“Búp sen xanh” đã vượt qua những giới hạn của tiểu thuyết lịch sử thường nhằm xây dựng một thần tượng trong nhân dân mà đi sâu miêu tả khắc họa cuộc sống dung dị, đời thường rất đỗi chân thực về vị lãnh tụ sống mãi trong lòng dân “cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, sáng chói mà không gây choáng ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu”.
Qua đó ta cũng bắt gặp những mảnh đất hồn người nơi xứ Nghệ yên bình nghe cha đọc thơ, ngắm mẹ ngồi dệt vải, có chị Thanh, anh Khiêm; cố đô Huế cổ kính, trường Quốc học và cuộc sống khốn khó, bất hạnh mang theo nỗi trăn trở về tuổi trẻ, về con người và vận mệnh dân tộc; có hình ảnh người thầy giáo trẻ nơi Trường Dục Thanh, Phan Thiết; có Bến Nhà Rồng với những người thợ máy và tiếng còi tàu vọng mãi trong không gian thăm thẳm, có gương mặt người con gái Sài Gòn.
Tất cả thôi thúc Người vội vã xuống tàu làm phụ bếp trên tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-re-vin bôn ba khắp năm châu bốn biển trong 30 năm không nghỉ với bàn tay không mà lòng yêu nước thương dân đã ngấm vào cốt tủy và lời thề hẹn trở về khi đã tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Nghẹn ngào bởi lời gửi gắm niềm tin của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc cho Người: “Nước mất, con lo tìm đường cứu nước, cha rất mừng.
Con đi vì mục đích lớn. Con có thể thực hiện được cái điều mà cha và lớp người như cha phải bó tay”. Chắc chắn khi đọc lại chúng ta đều không khỏi thổn thức trước câu nói của người cha ấy khi tiễn con xuất dương tìm đường cứu nước: “Đừng! Con đừng gọi cha lúc này! Con phải gọi: Tổ quốc! Đồng bào! Đi… đi con!”.
Chấp nhận sự đánh đổi lớn lao như vậy vì trong trái tim vĩ đại kia là lòng yêu nước nồng nàn, là ham muốn rực cháy đưa dân tộc khỏi xiềng xích, là tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Chính sự chở che, yêu thương của gia đình, quê hương, của hàng xóm, bè bạn, sự nghiêm khắc của cha, sự tảo tần của mẹ, sự đùm bọc của “chị Thanh”, “anh Khiêm” đã nuôi dưỡng nên một vĩ nhân lịch sử.
Chúng ta lớn lên khi tất cả đã đủ đầy, văn hóa nghe nhìn có cơ hồ xâm lấn văn hóa đọc. Thế nhưng những trang viết của nhà văn Sơn Tùng hẳn sẽ giúp ta thấm thía hơn giá trị của gia đình, giúp ta thêm yêu nơi ta đã chôn rau cắt rốn, sự dưỡng dục, dạy dỗ, nơi từng cành cây ngọn cỏ mái nhà cũng thân thương và bình yên đến lạ.
Và càng trân quý hơn những điệu hồn thiêng liêng của văn hóa truyền thống dân tộc. Đoạn trích “Dọc đường xứ Nghệ” và “Búp sen xanh” đã để lại những dư vị đẹp đẽ, những bài học cao cả, giá trị thiêng liêng. Chính vì lẽ đó “Búp sen xanh” cũng trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhiều nghệ sĩ và nhà nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật.
Trong điện ảnh, sách được chính tác giả chuyển thể thành kịch bản “Cuộc chia ly trên Bến Nhà Rồng”, về sau được sản xuất thành phim truyện với tựa đề “Hẹn gặp lại Sài Gòn”. Nhà nghiên cứu Mịch Quang đưa Búp sen xanh lên sân khấu tuồng với tên gọi “Cậu bé làng Sen”.
Còn Nhạc sĩ Thuận Yến thì có lần nói rằng chính “Búp sen xanh” đã là nguồn tư liệu và khởi nguồn của cảm hứng để ông viết nên ca khúc nổi tiếng “Miền Trung nhớ Bác”. Họa sĩ Lê Lam đã chuyển thể tác phẩm thành truyện tranh mang tên “Từ làng Sen.”
“Búp sen xanh” cũng được chuyển thể thành truyện thơ như “Diễn ca Búp sen xanh” của tác giả Lê Xuân Hãng, “Nhụy vàng hương sen” của tác giả Hoàng Trang, “Ngó sen” của tác giả Đức Thục và “Hương sen” của tác giả Hồ Nam. Tất cả những điều đó làm ta thấm thía hơn tấm lòng, nhân cách của con người Việt Nam đẹp nhất – Hồ Chí Minh như nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định:
Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa!
Trong sự nghiệp cầm bút, ông đã xuất bản 16 tác phẩm về Bác, bao gồm: Tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài, ký, kịch bản phim, truyện tranh. Tiêu biểu hơn cả là cuốn tiểu thuyết “Búp sen xanh”, cuốn tiểu thuyết lịch sử đầu tiên được viết một cách trọn vẹn về thời niên thiếu cho đến khi ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành. Đây là tác phẩm tâm huyết nhất mà nhà văn kính dâng lên vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, tác phẩm của một con người đặc biệt, một nhà văn đặc biệt mà“Ý chí sống và sức sáng tạo phi thường của ông là một tấm gương lớn” như nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã từng khẳng định. Bởi vì trước khi rời xa trần thế, nhà văn bị tai biến 11 năm, mất hoàn toàn khả năng tự sinh hoạt nhưng vẫn luôn đau đáu, khát khao một nỗi niềm là dâng cho đời những đóa hoa thơm.