Ân Quận công, tên chữ là Trung Lương, tên thụy là Kiêm Dũng, húy Đức Nhuận - người có tài lược, khí phách hơn người, ông lấy việc thao giỏi võ nghệ làm hướng tiến thân, ông được phong Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Bắc quân Đô đổc Thái tế.
Quế Quận công (con của Ân Quận công) cũng là người có khí chất tinh anh khác thường (khí bẩm anh nghị), nghề vũ rất mạnh, mã mâu rất giỏi. Trong các cuộc khảo sát ở võ trường, Quế Quận công luôn đứng ở hạng vô địch. Quế Quận công thường theo cha đi đánh chúa Nguyễn Hiền ở Phú Xuân, Thiên Lộc, Hưng Nguyên tới cửa Nhật Lệ.
Bản thân là người rất chịu khó học hỏi. Khi cha mình vì trung quân mà phải tuẫn tiết, ông đã nối giữ nghiệp binh của cha đánh Mạc Nghiệt ở Cao Bằng, đánh Bảo tặc ở Tuyên Quang. Ông được vua rất mực yêu mến, gả em gái út của mình cho con trai Quế Quận công.
Trong gia phả còn ghi lại một cách sống động câu chuyện tỉ thí võ công của Quế Quận công với một người tên Trung Quận công giỏi việc dùng mâu. Ông đã chiến thắng sau chưa đầy một hiệp giao đấu trước sự thượng lãm của chúa Trịnh và đông đảo văn võ bá quan. Từ đó, ông được vua rất yêu mến, ai gièm pha gì vua cũng không nghe.
Quế Quận công không chỉ tinh thông võ nghệ, uyên thâm mưu lược, giỏi cầm quân, ông còn chỉ huy giúp dân phòng, chống thiên tai. Phụng mệnh vua trông coi việc đắp đê Vĩnh Bảo - Hải Phòng, ông đã chủ động mang tiền của nhà ra phục vụ đắp, kè đê.
Nhân dân trong vùng hết sức cảm kích trước công đức và tấm lòng của Quế Quận công, đã lập miếu thờ, đến nay vẫn còn (hiện nay tại miếu Đại Trung còn lưu giữ được chiếc cọc gỗ, vật chứng có giá trị quan trọng phản ánh việc kè đê, phòng chống thiên tai, giúp nhân dân tại Vĩnh Lại, Hải Dương).
Nhậm Quận công là con trưởng của Quế Quận công, ông là người có chí khí anh hào, tinh thông võ nghệ, cưỡi ngựa bắn cung cực kỳ thiện nghệ.
Giao Quận công là con Chiêm Quận công. Khi còn ít tuổi đã mồ côi cha, song nhờ đức tính kiên trì, ham học hỏi, chuyên tâm đọc kinh sách đến nỗi hầu như không ra khỏi phòng, nên không sách nào không thuộc, lại thích chuyện đàm đạo binh cơ, luật võ càng tinh thông. Khi triều đình mở khoa thi, ông ra ứng thi Bác cử, đỗ Tạo sĩ và là người khai khoa Tạo sĩ.
![]() |
Di vật cọc gỗ của Quế Quận công vẫn được lưu giữ trong miếu. |
Là di tích lịch sử tiêu biểu minh chứng cho truyền thống thượng võ của Kinh Bắc, miếu Đại Trung còn là một trong số hiếm di tích vẫn giữ được nguyên vẹn kiến trúc từ khi khởi dựng cách đây hơn 360 năm.
Đây là di tích võ lược rất đáng quan tâm do triều đình nhà Lê khởi dựng xuất phát từ sự cảm phục khí chất đại trung đại nghĩa của Ân Quận công trong trận Dũng Quyết (miền Trung, năm Canh Tý 1660).
Các nhà nghiên cứu cho rằng, ngay với ba chữ “miếu Đại Trung” cũng được triều Lê ban tặng chứ không phải do người dân hay dòng họ tự đặt rồi gắn lên.
Tổng thể di tích gồm 5 gian tiền tế và phần hậu cung - miếu trong. Kiến trúc phần hậu cung khá đặc biệt với mái vòm dày 0.7m, tường dày 1.2m – 1.35m. Vật liệu chính là gạch, vôi, mật mía và cát nên rất chắc chắn. Riêng 5 gian Tiền tế được gia tộc tu bổ vào năm 1974 thu gọn còn 3 gian 2 dĩ xây dựng bằng gỗ lim, gạch ngói đơn giản nhưng khá chắc chắn, đúng theo phong cách kiến trúc thời Lê.
Hiện nay, di tích còn lưu giữ nhiều tư liệu chữ viết như gia phả, bản gốc sắc phong của các triều đại, hoành phi, câu đối… đều rất có giá trị cho việc nghiên cứu lịch sử giai đoạn Lê Trung Hưng.
Đáng chú ý là những hiện vật bằng đá, hình trụ, hình khối có niên đại thời hậu Lê và Lê Trung Hưng được chạm khắc họa tiết hoa văn rõ nét, không rườm rà nhưng sống động, đạt trình độ cao về thẩm mỹ nghệ thuật, đồng thời thể hiện sức mạnh, sự oai phong lẫm liệt và tính bền vững trường tồn.
Từ cổng di tích vào có đôi chó đá tư thế ngồi chầu cao 90cm, dáng vẻ hiền từ, vững chãi. Tiếp đến là đôi voi đá cao 117cm dáng phủ phục. Đối diện là đôi ngựa đá cao 150cm được chạm đủ yên cương, chuông nhạc. Bên trái có một chiếc thống đá đường kính 130cm, xung quanh chạm khắc hình cây cỏ, mây, nước và 4 chữ Thọ ở 4 phía. Bên phải có một cây hương đá hình trụ, vuông 4 mặt khắc chữ Hán.
Trong hậu cung cũng có một cây hương đá 8 mặt, chân đế là đài sen, 4 phía chạm hoa, mây, lá và chữ Hán. Ngoài ra còn một ban thờ bằng đá, một tấm đá nguyên khối gắn trên tường với 3 chữ “miếu Đại Trung”, có cột đồng trụ, sấu đá và đôn bằng đá hình bán nguyệt… Tất cả những hiện vật này được bài trí hài hòa, thể hiện được nét tôn nghiêm, cổ kính trong tổng thể khu di tích.
Điều này thể hiện trước hết ở tính nguyên gốc của miếu. Do điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên, sự biến động của lịch sử xã hội, qua thời gian, nhất là chiến tranh liên miên, sự thay đổi của các vương triều phong kiến nên trong cả nước còn rất ít những di tích giữ được nguyên vẹn về kiến trúc như miếu Đại Trung.