Vua Lê Hiển Tông là vị hoàng đế thọ nhất và ở ngôi lâu nhất so với các vị vua của vương triều Hậu Lê. Sử sách cho biết, Lê Hiển Tông là người nhân từ, điềm tĩnh, thông minh, đa tài nhưng vì sống ở thời buổi xã hội đảo điên, quyền lực nằm cả trong tay chúa Trịnh nên vua không thể thi thố được gì mà chỉ yên phận với cuộc sống nhàn tản.
Vua thường nói: “Học là để thi thố ra các công việc, trẫm khoanh tay rủ áo trông đợi thành công, cần gì đọc sách. Hàng ngày chỉ ca múa để mua vui mà thôi”.
Đổi cách ra đề thi, trừ bỏ tiêu cực
Thời Lê trung hưng vẫn kế tục nền giáo dục, thi cử như thời Lê sơ nhưng việc tổ chức thi không còn giữ được sự nghiêm túc. Tình trạng “Các học giả chỉ chuộng nắn nót từng câu, văn chương ngày càng kém cỏi, chỉ học thuộc lòng rồi theo đúng sách viết ra… Thơ phú, tứ lục đều chép theo bài cũ, không sợ giống nhau” (Lịch triều hiến chương loại chí).
Bấy giờ các quan trường thường dùng lại các đề có sẵn của các lần trước không thay đổi gì vì vậy có nhiều người làm bài sẵn mang bán để nho sinh học thuộc. Tháng 10 năm Tân Mão (1711), vua Lê Dụ Tông đã tìm cách bài trừ tình trạng này bằng quy định mới.
“Đại Việt sử ký tục biên” chép: “…Ra lệnh cho các quan chấm thi không được noi theo lệ cũ. Thói xấu ở trường thi nhờ thế dần dần được sửa đổi”.
Vua Tự Đức thi văn đỗ hạng... bét
Là người thông minh, nổi tiếng văn hay chữ tốt nên vua Tự Đức rất tự cao, nói: Trẫm không đi thi nhưng nếu đi thi nhất định trẫm sẽ đỗ Trạng nguyên.
Thấy mọi người không tán đồng, Tự Đức liền nghĩ ra cách cùng một số vị đại khoa làm một bài luận rồi rọc phách gửi sang nhờ vua nhà Thanh lập ban giám khảo chấm giúp. Tự tin nghĩ thế nào mình cũng đỗ đầu nhưng hoá ra bài văn của Tự Đức xếp cuối. Trong bài thi của ông bị phê rằng: Bài này tỏ ra tác giả là một người học rộng, khí phách, không phải là người thường nhưng là người không có tài mấy!.
Vua làm vè châm biếm quan
Có lẽ vua Tự Đức là người duy nhất làm vè châm biếm các đại thần của mình. Sự tình bắt đầu từ việc tháng 4 năm Bính Tý (1876), vua Tự Đức cùng triều thần ra cửa Thuận An để quan sát dân tình. Bỗng xuất hiện 2 chiếc thuyền của bọn cướp biển Tàu Ô tấn công 9 chiếc thuyền chở hàng của quân Nguyễn.
Chúng bắn giết khiến thuyền của triều đình bỏ chạy tán loạn, những thuyền chiến được cử ra đánh thì súng thần công bắn không tới, phát thì trượt, phát thì không nổ. Không những thế, bọn cướp bắn lại khiến cho quân triều đình bị thương vong.
Tận mắt thấy cảnh trớ trêu, tinh thần yếu kém bạc nhược của quan quân, vua Tự Đức ngao ngán trở về triều nhưng không ban lệnh trách phạt ai. Trái lại vua làm bài vè khiến các quan liên đới phải hổ thẹn:
“Nghênh ngang võng võng, dù dù/ Bài vàng xiêm mũ xuân thu tháp đầu/ Cũng không tài cán chi đâu/ Rồi ra múa mỏ, vểnh râu một bè/ Phen này mắt thấy, tai nghe/ Tham sinh quý tử một bề như nhau/ Ăn thì giành trước giành sau/ Đến khi có giặc thụt đầu, thụt đuôi/ Cũng xưng rằng đấng làm tôi/ Cớ sao chẳng biết hổ ngươi trong mình!”.
Đồng Khánh cũng có bài “Nam quốc sơn hà”
Đánh giá các con bằng thơ: Vua Minh Mạng có đến 142 người con (78 hoàng tử, 64 công chúa). Theo “Quốc sử di biên”, vào tháng 12 năm Nhâm Thìn (1832), bấy giờ vua có tròn 100 người con bèn làm thơ đánh giá tư chất của các con mình. Vua ngâm thơ rằng: Bất hữu Chu Công, Chu Vũ thánh/ Diệc vô Thúc Độ, Thúc Tiên ngu. Nghĩa là: Không có con nào thánh bằng Chu Công, Chu Vũ Vương; cũng không có con nào ngu như Thúc Độ, Thúc Tiên”.
“Nam quốc sơn hà” được coi là “tuyên ngôn độc lập” đầu tiên ra đời trong cuộc kháng chiến chống giặc Tống xâm lược thời nhà Lý. Còn bài thơ “Nam quốc sơn hà” của vua Đồng Khánh thời Nguyễn được viết vào tháng 2 năm Đinh Hợi (1887) có nội dung thể hiện lo lắng trước thời cuộc, nhắc nhở quan lại phải hoàn thành chức phận.
Nội dung của bài thơ gồm 20 khổ 80 câu thơ còn dành phần lớn để ca ngợi công lao sáng nghiệp của vua Gia Long, công tích của triều Nguyễn với dân chúng và chỉ trích các đại thần Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường phế lập ngôi vua, gây hấn với Pháp.
Bài thơ của vua Đồng Khánh được mở đầu bằng hai câu: “Nam quốc sơn hà Nam đế đô/Thần truyền thánh kế tráng hoàng đồ” (Sông núi nước Nam vua Nam trị/Thần truyền Thánh nối rộng cơ đồ).