- Một số yếu tố nguy cơ khác: bệnh co thắt thực quản, tiền sử cắt dạ dày, viêm dạ dày thể teo đét, HPV, bệnh tăng tạo chai lòng bàn tay, bàn chân, dùng thuốc Biphosphonate và mắc ung thư đường hô hấp trên.
Ngược lại, một số loại thức ăn và thuốc có tác dụng làm giảm nguy cơ mắc ung thư thực quản biểu mô tuyến:
- Chế độ ăn giàu chất xơ từ hạt ngũ cốc, beta-caroten, folate, vitamin C, B6, chất chống oxi hóa làm giảm nguy cơ bệnh Barrette thực quản và ung thư biểu mô tuyến. Ngược lại, chế độ ăn giàu cholesterol, đạm động vật và vitamin B12 làm tăng nguy cơ loại ung thư này. –
Aspirine và một số loại thuốc chống viêm không Steroid khác (như Paracetamol..) khác làm giảm tỉ lệ ung thư thực quản biểu mô tuyến. Một số dấu hiệu của ung thư thực quản:
Bệnh nhân có thể có cảm giác thức ăn dính, khó nuốt, nhưng vẫn nuốt được nếu nhai kỹ.
Một số bệnh nhân có cảm giác nóng rát, khó chịu sau xương ức.
Nghẹn thức ăn đặc tăng dần gây ra do khối u bít tắc lòng thực quản.
Sút cân liên quan tới nuốt nghẹn, tới thay đổi chế độ ăn và sự phát triển của khối u.
Trào ngược nước bọt hoặc thức ăn: gặp ở một số bệnh nhân giai đoạn tiến triển.
Có thể gặp viêm phổi do trào ngược.
Khàn tiếng nếu dây thần kinh thanh quản quặt ngược bị u xâm lấn.
Thiếu máu, thiếu sắt do mất máu mạn tính từ khối u là dấu hiệu rất thường gặp.
Ít khi có biểu hiện nôn ra máu, đi ngoài phân đen, hay trào ngược ra dịch có máu. Xuất huyết tiêu hóa ồ ạt xảy ra khi u ăn mòn động mạch chủ, phổi hay động mạch phế quản.
Dò khí quản là biến chứng muộn của bệnh, xảy ra khi ung thư xâm lấn trực tiếp từ lòng thực quản vào lòng khí quản (đường thở, nằm ngay phía trước thực quản trong lồng ngực). Bệnh nhân ho không kiểm soát được và thường xuyên viêm phổi. Thời gian sống thêm của những bệnh nhân này là dưới 4 tuần.