Mặc dù các quy định mới đưa ra tại dự thảo sửa đổi Thông tư 16 không có tác động nhiều đến các doanh nghiệp phát hành ngay kể cả khi dự thảo này được thông qua, song theo các chuyên gia, dự thảo Thông tư 16 cũng có điểm mới rất ý nghĩa với các nhà đầu tư và cả các TCTD là việc cho phép mua lại trái phiếu đã phân phối trước ngày 31/12.
Trong bối cảnh các TCTD chịu nhiều áp lực mua lại TPDN khi nhà đầu tư yêu cầu tất toán trước hạn thì việc ban hành quy định mới giúp nhà đầu tư có lối thoát và các ngân hàng cũng tránh được những rủi ro pháp lý khi phân phối trái phiếu.
Trong khi các tổ chức phát hành gặp khó khăn về dòng tiền và không thể mua lại thì việc các ngân hàng, TCTD đứng ra mua lại cho nhà đầu tư là phù hợp, giảm mối lo cho nhà đầu tư cá nhân trong bối cảnh thị trường thứ cấp tập trung trên HNX chưa đi vào hoạt động.
Đặc biệt, việc các ngân hàng mua lại TPDN và trở thành trái chủ cũng tạo thuận lợi cho việc đòi hỏi nhà phát hành thực hiện đúng cam kết bởi tổ chức phát hành và thường cũng là khách hàng vay vốn của ngân hàng.
Dự thảo sửa đổi Thông tư 16 cũng bổ sung nhiều quy định mang tính chặt chẽ hơn với doanh nghiệp phát hành như việc TCTD chỉ có thể mua TPDN khi hệ số nợ/vốn chủ sở hữu (bao gồm cả khối lượng TPDN dự kiến phát hành) không vượt quá 5 lần.
Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp có mức đòn bẩy cao hơn 5 lần sẽ không thể bán trái phiếu cho TCTD dù đáp ứng các tiêu chí phát hành trái phiếu của Nghị định 153 hoặc Nghị định 65 sửa đổi.
Đồng thời, mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng được kiểm soát chặt chẽ hơn bằng quy định TCTD phải sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt để thanh toán số tiền mua TPDN. Quy định này sẽ hạn chế các giao dịch tiền mặt và hoạt động mua/bán TPDN để tái cơ cấu nợ cho các doanh nghiệp sân sau.
Theo các chuyên gia, dự thảo sửa đổi Thông tư 16 này nếu được ban hành cũng chưa có tác động nhiều đến việc giải quyết vấn đề TPDN và thị trường bất động sản. Rủi ro đối với hệ thống tài chính vẫn rất hiện hữu, bởi khi một doanh nghiệp chậm trả trái phiếu thì sau đó sẽ có khả năng chậm trả nợ ngân hàng và nhảy nhóm nợ.
Khi doanh nghiệp chậm trả nợ quá hạn 91 ngày thì vào nhóm ba: "Nợ dưới chuẩn", mức lập dự phòng 20%; Trên 181 ngày thì vào Nhóm 4 - Nghi ngờ, 50% dự phòng và mức xấu nhất là nếu chậm trả và trên một năm thì nhảy Nhóm 5 - Mất vốn, 100% dự phòng nợ xấu, ông Thuân phân tích.
Đây là vấn đề nên được đánh giá cụ thể và có những chính sách tiếp theo để có thể giải quyết vấn đề TPDN hiện nay và giảm thiểu rủi ro sang nợ xấu tín dụng ngân hàng.
Đồng quan điểm, ông Hoè cũng chỉ ra hai vấn đề căn cơ gây ra sự tiêu cực của thị trường TPDN cần xử lý triệt để. Một là, doanh nghiệp phát hành phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn theo thông lệ quốc tế, phải được chấm điểm xếp hạng tín nhiệm và đạt được các hệ số nợ nhất định.
Không định chế nào giám sát tài ba bằng thị trường, khi doanh nghiệp chuyển từ xếp hạng AAA sang BBB, trái phiếu của doanh nghiệp lập tức bị bán tháo. Đây là phản ứng bình thường của thị trường, vì vậy doanh nghiệp cần minh bạch thông tin và giữ chất lượng trái phiếu nếu muốn thu hút được nhà đầu tư.
Thứ hai, phải xử lý được vấn đề về sở hữu chéo. Cần xử lý nghiêm túc các vụ việc này, chấm dứt tình trạng tạo ra các ngân hàng để cho vay các công ty sân sau, ông Hoè kiến nghị.
Liên quan đến TPDN, một số ngân hàng tham gia giới thiệu trái phiếu của các công ty sân sau, thậm chí có trường hợp nhà đầu tư tố nhân viên ngân hàng “đánh lận con đen”. Điều này cực kỳ nguy hiểm và là gốc gác của những vấn đề tiêu cực trên thị trường trái phiếu và cả bất động sản.
Nếu hệ thống ngân hàng có vấn đề sẽ mất một thời gian rất dài để hồi phục thị trường tài chính, thậm chí kéo dài đến 10 năm hoặc hơn, ông Hoè cảnh báo.
Theo ông Hoè, chính sách không nên làm theo kiểu “xử lý tình huống”, như Nghị định 08 chỉ trì hoãn một số quy định của Nghị định 65 chứ không giải quyết vấn đề căn cơ. Nếu không tập trung vào gốc rễ của vấn đề thì việc ban hành các giải pháp ngắn hạn chỉ làm khủng hoảng trên thị trường tạm lắng được một thời gian rồi lại bùng phát bất kỳ lúc nào.