Về số lượng, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tính trên số giảng viên toàn thời gian, bộ yêu cầu đạt trên 20% và từ năm 2025 đạt trên 25% đối với cơ sở đào tạo không đào tạo tiến sĩ; trên 10% riêng đối với các trường chuyên ngành đặc thù.
Đối với cơ sở đào tạo có đào tạo tiến sĩ, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ phải đạt trên 40%. Từ năm 2025, con số cần tăng trên 50%. Riêng các trường chuyên sâu nghệ thuật hoặc thể dục, thể thao có đào tạo tiến sĩ sẽ cần đạt trên 20%.
Ngoài ra, tỷ lệ giảng viên toàn thời gian có trình độ tiến sĩ thôi việc, chuyển công tác trong một năm, tính trên tổng số giảng viên toàn thời gian, không được quá 5%. Tỷ lệ sinh viên hài lòng với giảng viên về chất lượng và hiệu quả giảng dạy cần đạt trên 70%.
Ngoài các yêu cầu về số lượng, tỷ lệ sinh viên và giảng viên, Bộ GD&ĐT quy định cơ sở đào tạo phải có hạ tầng khuôn viên, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, hệ thống thông tin và học liệu đáp ứng yêu cầu bảo đảm chất lượng dạy và học.
Cụ thể, diện tích đất trên một sinh viên chính quy, quy chuẩn theo trình độ, lĩnh vực đào tạo và vị trí khuôn viên, không nhỏ hơn 25 m2 đối với cơ sở đào tạo và phân hiệu (nếu có). Diện tích sàn xây dựng trực tiếp phục vụ đào tạo và nghiên cứu trên một sinh viên chính quy, quy chuẩn theo trình độ và lĩnh vực đào tạo, không nhỏ hơn 5 m2.
Bên cạnh đó, bộ yêu cầu tất cả chương trình đào tạo, trừ các chương trình đào tạo do cơ sở đào tạo nước ngoài cấp bằng, phải được rà soát, cập nhật và đánh giá đạt chuẩn chương trình đào tạo.
Số đầu sách giáo trình, tài liệu học tập bắt buộc tính bình quân trên một ngành đào tạo ở các trình độ đào tạo không nhỏ hơn 50; số bản sách giáo trình, tài liệu học tập bắt buộc tính bình quân trên một sinh viên, quy chuẩn theo trình độ đào tạo, không nhỏ hơn 5.
Về việc đầu tư máy tính, số máy tính cá nhân phục vụ học tập tính trên 1.000 sinh viên không nhỏ hơn 50, tốc độ đường truyền Internet trên1.000 sinh viên đạt tối thiểu 100Mbps. Tỷ lệ sinh viên hài lòng về điều kiện dạy và học của cơ sở đào tạo cũng phải đạt trên 70%.